Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cư sĩ Phật tử cần xác định vai trò và trách nhiệm hoằng Pháp của mình!

23/10/201009:30(Xem: 9047)
Cư sĩ Phật tử cần xác định vai trò và trách nhiệm hoằng Pháp của mình!

Cư sĩ Phật tử cần xác định
vai trò và trách nhiệm hoằng Pháp của mình!
H.T Thích Khế Chơn,
Trưởng Ban Hướng dẫn Phật tử GHPG Thừa Thiên Huế

"Mưa dầm thấm sâu, sẽ giúp con cháu trong gia đình đến với đạo Phật, thực hành theo lời dạy của đức Phật một cách tự nhiên và bền vững. Điều quan trọng là tự thân của mỗi người cư sĩ Phật tử nên tự nổ lực tinh tiến tu học, cẩn thận ba nghiệp thân miệng ý, làm sao để trở thành một tấm gương sáng cho con cháu noi theo"

Nói đến vị trí và vai trò của Nam Nữ Cư Sĩ Phật tử như chúng ta đều biết là đã được hiến chương Giáo hội Phật Giáo Việt Nam định hình trong ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam, hôm nay cũngchỉ để xác lập một thành phần kế thừa vốn có sẵn của truyền thống “TứChúng Đồng Tu” trong đạo Phật và cũng để tăng cường sự đoàn kết trong cơ cấu tổ chức của Giáo hội đối với một thực thể nhân sự đông đảo nhấtmà suốt dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam không ngừng gắn bó với đạo Pháp và dân tộc.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có khả năng tập hợp thống nhất tất cả các Giáo phái Tăng già và Cư sĩ cả nước cùng chung hoạt động hài hòa trong suốt 28 năm mà không có sự rạn nứt chia rẽ nào,đó chính là sự thành tựu lớn về sự đoàn kết mà các Giáo hội trước đâytrong lịch sử chưa từng làm được.

Các nam nữ Cư sĩ Phật tử là những thành viên rất quan trọng của Giáo hội. Ngày xưa, đức Phật gọi cư sĩ là những cận sự nam và cận sự nữ, họ mang một chức năng quần chúng, lãnh trách nhiệm hộtrì Tam bảo một hậu thuẩn lớn lao và kiên cố cho giới xuất gia. Vì vậyngười cư sĩ có một vị trí nhất định trong Giáo hội và phải được quan tâm đúng mức. Ngày nay người cư sĩ không chỉ đến chùa lạy Phật, tụng kinh hoặc nghe giảng mà phải biết tham gia công tác Phật sự của Giáo hội, biết chia sẻ, gánh vác trách nhiệm cùng giới tu sĩ trong những hoạt động của Giáo hội. Giáo hội phải có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng, đồng thời phải có sự đầu tư nhất định cho giới cư sĩ để họ có điều kiện tham gia Phật sự với đạo tâm và thiện chí sẵn có.

Cho nên chúng ta phải có một chương trình làm việc tổ chức thật nghiêm túc. Trước nhất là phải tạo cho giới cư sĩ một niềm tin, bồi dưỡng niềm tin trong lòng người Phật tử. Chúng ta không chỉ để cư sĩ đến với Tăng Ni, mà trái lại Tăng Ni phải trực tiếp đến với các giới cư sĩ Phật tử. Ban Hướng Dẫn Phật tử các tỉnh thành phải tổ chức nhiều đợt giao lưu gặp gỡ thăm viếng quần chúng Phật tử, đi sâuđi sát vào mọi sinh hoạt của các cấp cơ sở Niệm Phật Đường, Đoàn chúng cư sĩ Phật tử, các đơn vị Gia Đình Phật tử, tìm cách giúp đỡ tháogỡ khó khăn nhất là chúng ta nên có mặt để an ủi khi gia đình của các sư sĩ Phật tử gặp phải những hoàn cảnh không may xảy đến, nếu thấy cầnthì nên vận động để có thêm sự giúp đỡ về vật chất.

Trong thời đại mà những tệ đoan xã hội và văn hóa phương Tây ào ạt xâm nhập, làm cho văn hóa truyền thống và đạo đức con người sa sút, làm ảnh hưởng rất nhiều đến nếp sống thường nhật của đồng bào; hơn nữa trong xã hội được kích thích tiêu dùng, đẩy đưa dục lạc hưởng thụ, phá vỡ luân thường đạo lý cổ truyền của dân tộc; sự dối trá tràn lan với quá nhiều thủ đoạn gian manh xảo quyệt, bất kể sức khỏe và sinh mạng của con người, lắm khi còn dùng bạo lực tàn nhẫn với mục đích đơn giản là thủ lợi mà thôi. Những điều đó đang xảy ra, hoàn toàn ngược lại với tinh thần Ngũ Giới là căn bản của người bước đầu theo Phật. Qua những thực trạng như vậy trong xã hội, các giới cư sĩ Phật tử cần xác định vai trò và trách nhiệm hoằng Pháp của mình đối vớicon em của mình và kể cả giới trẻ. Thật là vô lí nếu chúng ta cứ nói chuyện hoằng pháp ở đâu đâu mà bỏ quên chính những người thân thuộc trong gia đình mình. Mỗi vị cư sĩ Phật tử nên xác định mình đã có thiệnduyên để đưa con em mình đến với đạo Pháp, xa rời cuộc sống xấu xa tội lỗi, rượu chè say sưa, nghiện ngập và suy đồi đạo đức. Các vị Tăng,Ni cũng nên thường xuyên nhắc nhở và đề ra nhiệm vụ đó cho các đệ tử tại gia sư sĩ của mình. Trong một gia đình nếu có nhiều thế hệ kế tiếpnhau đều là Phật tử thì việc Phật hóa gia đình hết sức dễ dàng. Chúng ta nên gieo duyên lành cho con cháu trong gia đình bằng cách để con cháu mọi nhà đều được gần gũi với thầy bạn với chùa chiền, với giáo lívà với các Phật sự.

Mưa dầm thấm sâu, sẽ giúp con cháu trong gia đình đến với đạo Phật, thực hành theo lời dạy của đức Phật một cách tự nhiên và bền vững. Điều quan trọng là tự thân của mỗi người cư sĩ Phật tử nên tự nổ lực tinh tiến tu học, cẩn thận ba nghiệp thân miệng ý, làmsao để trở thành một tấm gương sáng cho con cháu noi theo. Đó chính là sự hấp dẫn tự thân, là sự giáo dục không lời mà con cháu đang cần vàyêu cầu ở các vị ông, cha. Gia đình Phât tử là một tổ chức ra đời trênnửa thế kỷ, đã từng bước khẳng định tôn chỉ hoạt động rõ ràng cũng như vai trò đắc lực của mình trong việc xây dựng ngôi nhà Giáo hội. Chúng ta cũng đã biết mục đích của Gia đình Phật tử là đào tạo những thanh thiếu đồng niên thành những Phật tử chân chánh, là nơi đào tạo mầm non kế thừa cho Giáo hội, con em chúng ta là những chủ nhân của đấtnước, là hạt nhân phát triển Giáo hội sau này. Nhưng chúng tôi thấy cómột số Gia đình Phật tử cách tổ chức để cho các em đến với chùa với Đạo vẫn còn rời rạc, một số quý vị Trú trì các chùa, Ban Hộ tự các NiệmPhật Đường chưa quan tâm đúng mức. Các vị đạo hữu cư sĩ cho phép con em đến với các tổ chức Gia đình Phật tử nhiều khi cũng không theo dõi rõ tình hình đường lối sinh hoạt. Giữa cuộc đời điên đảo với bao thú vui cuốn hút, nếu chúng ta không đồng tâm hiệp lực, chung sức chung lòng để có một định hướng rõ ràng mà lo cho con em, lắm lúc chúng ta sẽlàm mất đi những mầm non Phật tử rất đáng tiếc. Nhân hội nghị hôm naynên chăng chúng ta xác nhận thật rõ yêu cầu, nhiệm vụ và vai trò công tác của Ban Hướng Dẫn Phật tử, xem đây là một nhiệm vụ quan trọng cấp thiết của Ban Hướng dẫn Phật tử các cấp tỉnh thành, đặc biệt là đội ngũ Tăng Ni trẻ. Chỉ khi xây dựng được một đội ngũ hậu bị mạnh mẽ thì chúng ta mới đảm bảo được tương lai của Giáo hội nói riêng và Phật giáoViệt Nam nói chung.

Theo quy luật tre tàn măng mọc, nhưng nếu tre tàn mà măng không mọc hoặc mọc mà không hàng không lối thì tương lai sẽ nhưthế nào chắc ai cũng biết. Chúng tôi nghĩ rằng những vị cư sĩ Phật tửvà Gia đình Phật tử đến với chùa ,với Giáo hội là bản thân đã tự nguyện đem công đức mình để cùng với chư vị Tăng Ni tham gia các Phật sự, cùng đồng tâm hiệp lực tạo ra sức mạnh đồng bộ, góp phần vào kết quả kế thừa tốt đẹp hơn nữa truyền thống phụng đạo giúp đời theo phươnghướng hoạt động của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.

Tuy nhiên, mọi hoạt động tập thể nào cũng không thể để mặc cho ai cũng “tùy duyên tự phát”, coi nhe mọi sự chỉ đạo tập trung, đi ra ngoài nguyên tắc thống nhất ý chí hoạt động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, làm sai lạc việc thực hiện kế hoạch của tập thể.

Thay mặt Ban Hướng Dẫn Phật tử, tỉnh Giáo hội Phật Giáo Thừa Thiên Huế, chúng tôi có mấy thỉnh nguyện sau đây:

1.Thỉnh cầu Ban Hướng Dẫn Phật tử Trung ương Giáo hội liên hệ với Ban Trị sự các Tỉnh, Thành hội đề nghị mỗi năm trong nhiệm kì nên tổ chức những khóa hướng dẫn hành chánh Giáo hội cho nhữngcư sĩ Phật tử tham gia công tác Phật sự ở các chùa, các Niệm Phật Đường, Đạo tràng, Đoàn, Chúng và Gia đình Phật tử. Đây là kế hoạch đào tạo đội ngũ nhân sự của Giáo hội ở các cấp có tính lâu dài và thường xuyên.

2.Các vị Tăng Ni trẻ hiện đang trú trì các chùa, các Niệm Phật Đường là thay mặt Giáo hội để hướng dẫn cho hang cư sĩ Phật tử và Gia đình Phật tử tu học ở khắp các địa phương. Vì vậy, thỉnhcầu Ban Hướng Dẫn Phật tử Trung ương kết hợp với Ban Tăng Sự Trung ương và Ban Hoằng Pháp Trung ương cùng với Ban Trị Sự các tỉnh thành mởcác khóa bồi dưỡng chức năng trú trì; phổ biến những chương trình giáodục tâm lý và nghệ thuật sống, ngõ hầu tạo thêm thắng duyên cho các vị trú trì trong khi thừa đương lãnh đạo tinh thần cho tín đồ đạt được kết quả tốt đẹp hơn.

3.Thỉnh cầu Ban Trị Sự các tỉnh thành, Ban Đại diện Phật giáo các huyện luôn luôn hỗ trợ mọi mặt cho Gia đình Phật tử, đầutư cho họ niềm tin và trí tuệ, ủng hô các đơn vị Gia đình Phật tử đang sinh hoạt trong lòng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trong mọi công việc củng cố sinh hoạt và phát triển tổ chức. Chúng tôi tin tưởngnhờ tinh thần vô ngại của Chúng Trung Tôn, của Ban Hướng Dẫn Phật tử Trung ương Giáo hội, phát huy cao định lực tùy duyên, mà hào quang “DuyTuệ Thị Nghiệp” của đức Bổn Sư sẽ huy hoàng khắp đại chúng, đó là tạo thuận duyên cho phước điền trổ lộc, cho hạt Đạo nẩy chồi, hài hòa đượctrúc thạch lâm phong, thì lo gì không sum suê Đạo pháp.

(lieuquanhue.com.vn)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5445)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10442)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9253)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6562)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8958)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5124)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5320)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5760)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4626)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5209)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]