Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô gia đình, vô ưu, vô trú

27/07/201520:36(Xem: 7895)
Vô gia đình, vô ưu, vô trú


kinh hanh

VÔ GIA ĐÌNH, VÔ ƯU, VÔ TRÚ

 

Vĩnh Hảo

 

 

 

 

Hãy nói về những kẻ không nhà, đứng nơi đầu đường, ngủ nơi góc phố.

Lo toan không? khổ đau không? – Khó ai biết; chỉ thấy khi ngửa tay xin ăn thì gương mặt phải lộ ra vẻ thảm thương, tội nghiệp; và khi ngồi co ro nơi ghế đá công viên, hay dưới gầm cầu, thì cả thân người, cả thân phận, như bị gánh nặng của trời cao phủ xuống, nén xuống, tưởng chừng không bao giờ có thể vươn mình lên được.

Những kẻ ấy không có gia đình, hoặc đã có một gia đình tan vỡ, chia ly, tan tác.

Từ những ưu phiền lo toan nặng nề của đời sống (áo cơm, danh, lợi…), họ đã rơi xuống đáy vực, nơi không còn gì để phải vướng bận lo toan nữa.

Từ những căn nhà có vườn hoa nhỏ và sân cỏ xanh mát... họ đã, thoáng chốc (hoặc từ từ) trở thành những kẻ lang thang, không nơi trú ẩn cố định.

Chính họ, hoặc người khác, nghĩ đó là số phận, là định mệnh, là ý trời, là nghiệp quả (của một hay những nghiệp nhân gần, xa).

 

Hãy nói về những kẻ tự nguyện rời bỏ đời sống gia đình thế tục, sống đời vô ưu, thực hành con đường vô trú. (*)

Vì tự nguyện, cố nhiên họ hạnh phúc với chọn lựa của họ. Cơm ăn áo mặc không bận lòng. Ba y thô sơ, đắp đổi ngày tháng. Một bình bát dạo khắp muôn nhà. Môi rạng rỡ nụ cười thơ trẻ. Mắt trầm tư đạo lộ thâm sâu.

Không gia đình, không dây buộc trói. Không cửa nẻo, không mái che, nhà ba gian mở toang tường vách rui mè. Kẻ cùng tử hào phóng, đêm ngủ gốc cây, ngày rảo bước, ngang qua những quán trọ, không đâu là chỗ dừng nghỉ cuối cùng. Thênh thang con đường không đích đến. Bước qua những không gian và nơi chốn, bước qua những dĩ vãng, kỷ niệm, và thời gian…

 

Có vẻ gì tương đồng giữa những kẻ không nhà. Có, họ giống nhau ở vài hình thức, nhưng khác rất nhiều nơi bản chất. Một bên là nghiệp, một bên là nguyện.

Từ nghiệp chuyển thành nguyện, sẽ hạnh phúc.

Từ nguyện biến thành nghiệp, sẽ khổ đau – và hơn thế nữa: lụn bại, hư nát!

Từ nghiệp mà chuyển thành nguyện là cả một nghệ thuật, một thành quả rực rỡ của tư duy, giác ngộ.

Ngược lại, từ nguyện biến thành (nghề) nghiệp là một sự sa đọa khó tha thứ, khó chấp nhận!

Làm thế nào mà một kẻ tự nguyện sống đời vô gia đình, vô ưu, vô trú, lại có thể ham thích nhà cao cửa rộng, áo quần loè loẹt sặc sỡ diêm dúa, tiền tài của cải, cho đến phẩm hàm tước vị, quyền chức cao danh! Tất cả những thứ phù phiếm, hư huyễn ấy, chẳng phải đã từng một lần phủi sạch để chọn con đường cao đẹp vô danh vô tướng hay sao! Từ đâu mà ra nông nỗi như thế! Có khi nào kẻ lên đường chịu ngồi lặng vài phút giây, tự hỏi mình đi đâu, còn chăng con đường đã chọn, hay chính mình đã lạc hướng từ đời thuở nào?

Hãy nhìn lại, nhìn lại xem. Phải chăng cái gì nhỏ bé sẽ bị giam nhốt, chứa đựng trong những khuôn khổ nhỏ bé? Nếu tâm bao la như hư không thì có thân xác, mũ áo, nhà cửa, đền đài, danh vọng hay lợi lộc nào trói buộc được?!

Như vậy, tâm nhỏ hẹp, tủn mủn, chính là nguyên nhân của sự sa đọa, thoái hóa. Nó làm chùn những bước chân, khiến kẻ không nhà không thể ra khỏi khung cửa hẹp của những căn nhà, kẻ vô tư lự không thoát ra được  những điều lo nghĩ tân toan, kẻ vô trú không vượt qua nổi những gốc cây hay những quán trọ bên đường…

 

Thoáng chốc quay về, có khó khăn chi! Chí nguyện ban đầu hãy còn nguyên vẹn. Một tâm ấy thôi, sẽ chuyển động tất cả. Đơn sơ, đạm bạc. Môi cười hồn nhiên như con trẻ. Mắt sâu thăm thẳm như thiền gia. Mỗi bước chân cất lên, có thể vượt ngoài vạn dặm mây trắng.

 

________________

 

(*) Triển khai 3 ý nghĩa của chữ Xuất Gia: 1) xuất thế tục gia, 2) xuất phiền não gia, 3) xuất tam giới gia (rời khỏi căn nhà thế tục, xa lìa căn nhà phiền não, vượt ngoài căn nhà ba cõi [dục, sắc và vô sắc giới]).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2025(Xem: 321)
Hơn một thập niên sống và học đạo ở Na Lan Đà (Ấn Độ), pháp sư Nghĩa Tịnh đã ghi chép nhiều nhận xét về luật lệ cho tăng đoàn Phật giáo vào TK 7. Đây cũng là một mục đích chính của ngài sau 25 ở nước ngoài và hơn một thập niên du học ở Na Lan Đa (Ấn Độ). Phần này chú trọng vào điều 33 với tựa đề là “Tôn kính quai thức” 尊敬乖式 (tạm dịch/NCT các tục lệ/tôn kính ngược ngạo). Tuy điều 33 chỉ có 161 chữ, nhưng gồm nhiều khái niệm Phật giáo và dữ kiện rất đáng chú ý. Các ghi chép trong đó cho thấy hai bức tranh toàn cảnh của người thường (phàm/tục) phải trải qua giai đoạn xuất gia, sống một đời khất sĩ theo gương hạnh đầu đà để cuối cùng tìm đến niết bàn (vô sinh). Tương phản với người phàm sống trong tham vọng và xa xỉ, giả dối để mưu sinh. Ngoài ra, ảnh hưởng của Phạn ngữ không nhỏ trong văn hoá Trung Hoa, phản ánh qua các cách dịch nghĩa và kí âm còn tồn tại đến ngày nay; một số đã trở thành vốn từ căn bản của các ngôn ngữ bản địa mà ít người biết là có gốc 'ngoại lai'. Một số Hán và Phạ
10/02/2025(Xem: 1027)
Khi tiếng pháo đón chào năm mới 2025 chấm dứt, khi người Hòa Lan trở về với cuộc sống bình thường mỗi ngày thì đó lại là lúc người Việt Nam nơi đây chuẩn bị đón chào năm mới. Chúng ta đón Tết Nguyên Ɖán trong không khí gia đình, chúng ta không hưởng được không khí Tết ngoài đường phố, trong các cửa hàng như ở quê nhà.
10/02/2025(Xem: 608)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản. Lời dạy đó là từ một bài thơ của Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) khi ngài dạy ý chỉ Thiền tông cho vua Trần Nhân Tông. Lời dạy đó cũng là đúc kết từ nhiều Kinh khác nhau do Đức Phật truyền dạy.
10/02/2025(Xem: 982)
Trong tạng kinh Nikàya (Pali), cụ thể là Kinh Tương Ưng Bộ Samyutta Nikàya, Tương Ưng Nhân Duyên, những gì Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chứng ngộ, thấy biết như thật tương ưng với những gì chư Phật quá khứ đã chứng ngộ và thấy biết như vậy. Thế Tôn gọi đó là TÙY TRÍ (Tùy trí chư Phật quá khứ: thấy biết giống như chư Phật quá khứ đã thấy, đã chứng ngộ). Đấng Thiện Thệ cho rằng những ai Tùy Trí như vậy sẽ có Pháp Trí (tức là Pháp Trí như vậy do Tùy Trí Chư Như Lai mà có, nên tràn đầy ánh quang minh hay Pháp Quang).
06/02/2025(Xem: 1032)
XUÂN VÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỒ TÁT ĐI Pháp thoại Hòa thượng Thích Thái Hòa giảng cho Phật tử ngày mùng 2 tết Giáp Thìn, tại Tịnh Nhân Thiền đường, Tự viện Phước Duyên - Huế Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Từ Thị Di Lặc Tôn Phật.
05/02/2025(Xem: 626)
Trời xuân ấm vạn nẻo đường Đất xuân ấm giữa vô thường thế gian; Non xuân đứng giữa núi ngàn, Nước xuân chảy giữa muôn vàn điệu ru;
05/02/2025(Xem: 857)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tế và ước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn, hoặc ngược lại thì thực tế đôi khi cũng có thể khơi động và làm sống lại các ước mơ của mình trong quá khứ. Câu chuyện mà tôi sắp thuật lại dưới đây nêu lên các ước mơ của một người mẹ hiện lên với mình như một sự thực, và các ước mơ của một người con mãi mãi vẫn là ước mơ.
05/02/2025(Xem: 633)
NẾN VU LAN THẮP SÁNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG Trong truyền thống Phật giáo, lễ Vu lan là ngọn nến hiếu hạnh thắp sáng giữa đời thường để cho ai có mắt thì được thấy, có trí thì được sáng tỏ, có tâm thì cảm và có tình, thì tình thêm sáng đẹp, rộng và sâu.
05/02/2025(Xem: 1491)
CÁC PHÂN KHOA PHẬT GIÁO Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu.
04/02/2025(Xem: 416)
Có một bài thơ khó hiểu trong Thiền Tông. Bài thơ có tên là Ngũ Vị, có khi gọi là Động Sơn Ngũ Vị, và có khi gọi là Ngũ Vị Quân Thần. Bài thơ khó hiểu phần vì dùng nhiều chữ xưa cổ, nhiều hình ảnh thi vị, và vì chỉ cho một số chặng đường tu học trong Thiền Tông. Bài này sẽ tham khảo nhiều giải thích để làm sáng tỏ bài thơ này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com