Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chữ Tâm trong chữa bệnh

02/06/201002:09(Xem: 8943)
Chữ Tâm trong chữa bệnh

chu-tam

CHỮ TÂM TRONG CHỮA BỆNH

Nguyễn Hữu Đức

Một người bề ngoài trông có vẽ khỏe mạnh với vóc dáng hấp dẫn , diện mạo phương phi nhưng nếu trong lòng có điều phiền muộn , bất ổn về tâm lý thì không thể xem là có sức khỏe toàn diện . Và yếu tố tâm lý luôn luôn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì , bảo vệ sức khỏe .

HIỆU ỨNG PLACEBO

Trong quyển sách “Nơi không có bác sĩ” ( Where there is no doctor , ở ta dịch và xuất bản với tựa đề : “Chăm sóc sức khỏe” ), bác sĩ David Werner, tác giả cuốn sách, đã kể lại một trường hợp: “Có lần tôi thấy bệnh nhân nhức đầu dữ dội. Một phụ nữ đưa anh ta miếng khoai mài bảo rằng đây là thuốc giàm đau rất mạnh. Anh ta tin lời đã ăn nó và kết quả là khỏi đau nhanh chóng”. Ở đây, yếu tố tâm lý của người bệnh đã được tác động để phát huy tác dụng tích cực của nó. Khi người bệnh được cho dùng một chất nào đó không phải là thuốc, nhưng nếu người đó có sự tin tưởng tuyệt đối đó là thuốc thật, dùng chất đó và khỏi bệnh thì hiện tượng đó được gọi là “hiệu ứng placebo”. Trong chừng mực nào đó, có thề ghi nhận hiệu ứng placebo để giải thích những vụ việc liên quan đến việc chữa bệnh “kỳ lạ” mà nhiều người cho rằng khoa học khó có thể giải thích được . Đó là việc dùng nước lạnh, bùa chú, hay bất cứ thứ gì không phải là thuốc, nói chuhng là dùng những phương tiện , phương cách không theo y học chính thống, nhưng có sự tin tưởng của người bệnh vào tác dụng của chúng vẫn có thể chữa bệnh.

“Placebo” có nguyên nghĩa là “tôi làm vui lòng” ý nói bác sĩ sẽ tác động đến tâm lý của người bệnh , tạo cho họ sự phấn khởi, tin tưởng để mau hết bệnh. Trong quá trình điều trị bệnh, thầy thuốc thường khai thác tối đa yếu tố tâm lý để giúp quá trình bệnh diễn tiến tốt. Bác sĩ có mối quan hệ với bệnh nhân , cung cách khám chữa bệnh đúng mực, nói năng nhẹ nhàng, thân tình giải thích rõ ràng cặn kẽ, sẽ giúp bệnh nhân ổn định về mặt tâm lý và giúp việc điều trị bằng thuốc hoặc bằng phương thức trị liệu nào đó bằng phương pháp nhanh và tốt hơn. Không hiếm trường hợp đã xảy ra chỉ vì một lời nói của bác sĩ mà làm cho bệnh của bệnh nhân thêm nặng hơn hoặc giảm đi rõ rệt. Có một số phương thức điều trị không dùng thuốc mà dựa hẳn vào yếu tố tâm lý như thôi miên, tự kỷ ám thị ,thiền định …để ổn định tâm lý.

Nếu tress đã được chứng minh là có thể làm giảm sức đề kháng của cơ thể thì ngược lại , những biện pháp giúp ổn định tâm lý , gây sảng khoái về mặt tinh thần sẽ giúp nâng cao sức đề kháng của cơ thể để chống lại bệnh tật . Người ta ghi nhận các rối loạn liên quan đến triệu chứng cơ năng ( như bệnh suy nhược thần kinh) rất dễ chữa khỏi bằng các biện pháp tác động đến yếu tố tâm lý . Tuy nhiên , ta cần xem việc chữa bệnh bằng yếu tố tâm lý . Tuy nhiên , ta cần xem việc chữa bệnh bằng yếu tố tâm lý chỉ là biện pháp hổ trợ , chứ không thể thay thế cho tất cả các phương thức trị liệu của nền y học chính thống .

Trong quá trình điều trị bệnh , bác sĩ điều trị có thể cho một thứ thuốc để khai thác hiệu năng placebo , thí dụ , bệnh nhân bị rối loạn không cần dùng đến thuốc , nhưng lại có tâm lý không thể cưỡng là phải được dùng thuốc , bác sĩ có thể cho dùng vitamin để khai thác tác dụng tích cực của yếu tố tâm lý . Và thuốc trong trường hợp này là chất không có tác dụng chữa bệnh thật sự , được gọi là placebo ( ở ta , thường được dịch là “giả dược” hoặc “thuốc vờ” ) . Người bệnh cùng placebo do tin tưởng đó là thuốc chữa bệnh thật sự và có thể khỏi bệnh .

ỨNG DỤNG TRONG NGÀNH DƯỢC

Đối với ngành dược , các dược sĩ có thể tác động đến yếu tố tâm lý trong việc dùng thuốc . Ở nhà thuốc , khi tiếp xúc với người bệnh đến mua thuốc , lời hướng dẫn tư vấn dùng thuốc tận tình , thân ái của dược sĩ có thể khơi dậy niềm tin ở người bệnh vào tác dụng chữa bệnh của thuốc . Còn ở các công ty dược phẩm sản xuất thuốc , các dược sĩ không chỉ quan tâm đến việc bảo đảm chất lượng thuốc mà còn chú ý hoàn thiện những chi tiết tác động đến tâm lý của người dùng thuốc . Thuốc được chứa trong bao bì trình bày đẹp mắt , sáng sủa bao giờ cũng dễ tạo mối thiện cảm , làm người dùng thuốc có ấn tượng thuốc được sản xaut16 trong điều kiện tốt nhất . Dạng thuốc bào chế tiện sử dụng , bảo quản được lâu , được áp dụng kỹ thuật bào chế hiện đại sẽ có tính thuyết phục : “ thuốc dùng như thế sẽ mau hết bệnh” .

Tuy nhiên , trong quá trình nghiên cứu để tìm ra và sản xuất một thuốc mới , người ta phải loại bỏ hoàn toàn yếu tố tâm lý trong các giai đoạn thử nghiệm lâm sàng đối với thuốc . Bởi vì , theo định nghĩa , thuốc là những chất có tác dụng thực sự dùng để điều trị , phòng bệnh và chẩn đoán bệnh . “ Có tác dụng” nghĩa là thuốc có tác dụng vật chất vào trong cơ thể sau khi được bài tiết để đạt hiệu quả chữa bệnh , phòng bệnh , chẩn đoán , chứ không phải chỉ dựa vào tin tưởng nào đó mà khỏi bệnh .

Khi nghiên cứu tác dụng của một thuốc mới , để loại trừ yếu tố tâm lý , người ta thường sử dụng phương pháp mù đôi ( double blind study ) .

PHƯƠNG PHÁP MÙ ĐÔI

Trong phương pháp mù đôi , những người bệnh tham gia nghiên cứu được chia làm hai nhóm ngẫu nhiên và giống nhau ở một số đặc điểm ( như tuổi tác , giới tính …) một nhóm sẽ được điều trị bằng thuốc cần được thử nghiệm trong nghiên cứu , nhóm thứ hai được điều trị bằng placebo có hình dạng kích cỡ , màu sắc , mùi vị giống như thuốc thật . Thuốc mới thử nghiệm chỉ được đánh giá là có tác dụng thật sự khi nhóm một có tỷ lệ tính theo thống kê là khỏi bệnh , trong khi nhóm hai có tỷ lệ được xem là không khỏi bệnh . Gọi là “mù đôi” vì cả người bệnh lẫn bác sĩ chỉ định thuốc và theo dõi điều trị không biết thuốc nào là thuốc thật , thuốc nào là placebo ( người bệnh nhóm hai không được cho biết là dùng placebo , cứ đinh ninh là dùng thuốc thật ) . Cần loại bỏ yếu tố tâm lý của cả bệnh nhân dùng thuốc lẫn bác sĩ chỉ định thuốc thì việc nghiên cứu về tác dụng của thuốc mới thật khách quan .

Trước khi có phương pháp mù đôi , người ta dùng phương pháp mù đơn , không loại trừ yếu tố tâm lý của bác sĩ , bác sĩ biết thuốc nào là thật , thuốc nào là placebo . Như vậy chỉ cần nhận định của bác sĩ bị ảnh hưởng bởi tâm lý là có thể làm sai lệch kết quả nghiên cứu . Tác giả Wolf đã kể lại một ví dụ như sau : “ Một viện bào chế dược phẩm nghiên cứu cho ra đời thuốc trị hen suyễn . Đến giai đoạn thử nghiệm lâm sàng có nhờ một vị bác sĩ chủ trì thử nghiệm mù đơn xem hiệu quả của thuốc , Bác sĩ đã cho nhận xét : thuốc thật cho kết quả rất tốt m trong khi placebo không có hiệu quả . Nhưng sau đó , viện bào chế thông báo là có sự nhầm lẫn , hai thứ thuốc được cung cấp cho bác sĩ đều là thuốc thật . Chính sự tin tưởng của bác sĩ đồi với thuốc thật và sự nghi ngờ đối với placebo đã làm ông ta có thiên kiến và đi đến nhận xét như trên !”.

Để loại trừ tâm lý của thầy thuốc trong việc đánh giá tác dụng thuốc , ngày nay người ta dùng phương pháp thử nghiệm “mù đôi , ngẫu nhiên và kiểm soát”. Gần đây , ta thường nghe bác sĩ , dược sĩ chỉ tin cậy thông tin từ “y học thực chứng” (evidence – based medicine , viết tắt EBM ) tức là các bác sĩ , dược sĩ chỉ tin dùng các thuốc đã chứng minh tác dụng hiệu quả thực sự khi đã trải qua các thử nghiệm lâm sàng đúng quy cách khoa học và được thông tin từ y văn đáng tin cậy .

Đối với thầy thuốc , rất cần xem người bệnh là tập họp không chỉ gồm cac yếu tố lý hóa và sinh học mà cả yếu tố tâm lý xã hội ( tức xem người bệnh bao gồm cả cái thân và cái tâm ) , Riêng yếu tố tâm lý nhiều khi rất quan trọng cần tác động vào để có những lợi ích trong điều trị nhưng cũng có lúc phải loại bỏ hoàn toàn để chứng minh tác dụng thực sự của thuốc hoặc một phương thức điều trị .

Những điều trình bày ở trên nhằm cho thấy vai trò của yếu tố tâm lý trong chữa bệnh . Với cái nhìn rộng hơn , quan sát sâu sắc hơn , yếu tố tâm lý vừa kể có thể được xem là một phần của cái tâm( thức tâm) của thầy thuốc và người bệnh hay chăng ? Cái tâm ấy là gì ? Có phải đó là toàn bộ ý thức và cả vô thức đầy hỷ nộ ái ố , xen lẫn tốt và xấu của cuộc đời con người ? Rõ ràng là thầy thuốc chỉ có thể lắng nghe để thấu hiểu được nỗi khổ của người bệnh khi cái tâm của họ rỗng rang vắng lặng hoàn toàn , hầu toàn tâm toàn ý chăm sóc chữa trị cho người bệnh , Cần nhận thức người bệnh không chỉ đang “rêm” cái thân vì bệnh mà còn “loạn” cái tâm vì hoạn để thầy thuốc vừa chữa bệnh cái thân vừa ổn định cái tâm cho con người đang khổ kia .


(Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo 105)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/01/2015(Xem: 21644)
Ram Bahadur Bomjan, 01 cậu trai trẻ (sinh ngày 09 -tháng 04 -1990) đã ngồi thuyền định trong suốt 06 năm,mà không dùng bất kỳ thức ăn, nước uống nào, từ ngày 17 -05 -2005 đến ngày 17 -05 -2011. Với mong muốn đem lại thông điệp Hòa Bình và Yêu Thương Của Đấng Thiêng Liêng đến Toàn Thể Nhân Loại. Mong rằng mọi người hãy truyền bá thông điệp này rộng rãi hơn, và hãy thật sự yêu thương nhau như yêu chính bản thân mình. Ngài không khác gì 01 vị Bồ Tát tái sinh. Ngày nay người ta gọi Ngài là Dharma Sangha. Quý vị có quyền đặt câu hỏi với điều này "Đây có phải là sự thật hay là trò nhảm nhí, và anh ta làm vậy để làm gì và được gì ?" Dù cho Niềm Tin của quý vị có đặt ở đâu đi nữa, chỉ mong quý vị hướng đến việc Thiện, tránh xa việc Bất Thiện.Và nếu như chúng ta đã từng lầm lỗi cũng chẳng sao, vì vốn dĩ đâu ai hoàn thiện, nhưng quan trọng là chúng ta biết sai,chịu sửa, không tái phạm , điều đó đáng quý hơn. Xin hãy truyền bá thông điệp yêu thương này đến tất cả mọi người. Mong bình an và hạnh
15/01/2015(Xem: 9484)
Mùa xuân, vạn vật sinh trưởng. Ngắm một cây thân mộc hay thân thảo, ta thấy chúng đều đang chuẩn bị sinh lực để phát triển cành nhánh, nảy lộc, đơm hoa rồi kết trái. Con người cũng vậy, bé thơ, thiếu niên rồi thanh niên... Cái cây thì nó phát triển toàn bộ. Con người cũng phát triển toàn bộ cả phần vật chất và phần tinh thần. Thân vật chất thì tương tợ nhau nhưng phần tinh thần thì nó phát triển rất phức tạp.
14/01/2015(Xem: 7692)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
14/01/2015(Xem: 7764)
Tháng 10 năm 2014, Đức Đạt-lai Lạt-ma có một buổi thuyết giảng tại thành phố Boston trong chuyến viếng thăm Hoa kỳ. Một Phật tử Việt Nam tại đại học MIT (Massachusetts Institute of Technology) đã tham dự và trong dịp này có mua một tấm tranh treo tường ghi lại một lời giảng của Ngài gửi sang Pháp tặng tôi. Cử chỉ ấy khiến tôi không khỏi cảm động nhưng cũng không tránh khỏi một chút áy náy, bởi vì tôi chỉ quen biết người bạn trẻ này qua mạng internet thế nhưng chưa bao giờ gặp mặt.
13/01/2015(Xem: 10223)
* Về hình thức: Gồm 1 bao lì xì + 1 thẻ kinh hình Phật mặt trước , mặt sau có câu kinh Phật. * Về vấn đề đăng ký: Mỗi chùa được tặng 1 bộ gồm 300 thẻ kinh + Bao lì xì . ( Nếu cần nhiều hơn số lượng trên xin Quí Đạo hữu hoặc Chư Tôn Đức vui lòng liên hệ đặt thêm số lượng ( ĐT: 090 921 7921 ) xin hoan hỷ thêm phí in ấn tùy theo số lượng nhiều hay ít. Quí Đạo hữu hoặc Chư Tôn Đức vui lòng gửi thông tin liên lạc và địa chỉ của Chùa ( xin nói rõ chi tiết và hướng dẫn cách gửi hàng nêu vị trí toạ lạc ở vùng sâu vùng xa.)
10/01/2015(Xem: 6861)
Tôi vẫn có nỗi lo, đúng ra, đây là nỗi sợ. Nỗi sợ đó thế này: sẽ có một lúc tôi chết bất ngờ, và rồi tức khắc dòng nghiệp thức sẽ bị kéo trở lại Việt Nam cho một kiếp kế tiếp. Bởi vì, không một ngày nào trong đời, tôi không nghĩ về Việt Nam. Không phải nghĩ về một lần hay một buổi, đôi khi suốt ngày không rời ý nghĩ về quê nhà.
07/01/2015(Xem: 17390)
Nữ sinh viên xinh đẹp thích làm ni côMột cô gái ở Trung Quốc khiến nhiều người bất ngờ khi xuống tóc đi tu dù tuổi còn rất trẻ.
06/01/2015(Xem: 9322)
1. Ngày nay nhà cửa chúng ta rộng hơn, nhưng gia đình thì lại bé nhỏ hơn trước, * 2. có nhiều tiện nghi hơn, nhưng thời giờ thì lại hiếm hoi hơn, * 3. nhiều bằng cấp hơn, nhưng ý thức thì kém hơn, * 4. nhiều kiến thức hơn, nhưng phán đoán thì yếu hơn, * 5. nhiều chuyên gia hơn, nhưng lại có thêm lắm rắc rối, * 6. nhiều thuốc men hơn, nhưng sức khỏe lại tệ hơn,
04/01/2015(Xem: 7884)
Như đã đề cập ở một bài viết trước, chúng sanh có sáu tánh là tánh tham, tánh sân, tánh si, tánh tầm, tánh tín và tánh tuệ; chúng đi suốt trong dòng sống (bhavaṅga) của mỗi người. Tuy nhiên, chúng ta xem tánh nào vượt trội thì tạm gọi là tánh ấy, chứ chúng thường trộn lẫn tánh này và tánh khác khó nhìn ra chân tướng.
04/01/2015(Xem: 7601)
Trời buổi chiều ấm nhẹ, bà Tư rời xe, cười với bạn, hẹn mai lại đến đón đi làm như thường lệ. Tới cửa nhà, thò tay vào túi xách lấy chùm chìa khoá, chả thấy đâu. Lục tung cả túi cũng không có. Chắc lúc sáng vội đi nên khi đóng cửa chỉ vặn ngang cái chốt bên trong, rồi đóng cửa đi mà quên chùm chìa khoá ở nhà. Mà sao vô nhà đây, trễ cơm tối mất. Chợt nhớ là thứ ba mỗi tuần con trai đi học về sớm, bà thở phào nhấn chuông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]