Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một ngày thăm chùa Huế

20/05/201211:27(Xem: 8371)
Một ngày thăm chùa Huế

image

Nói đến chùa, không thể không nhắc đến Huế. Cố đô là nơi có mật độ chùa chiền thuộc loại cao nhất Việt Nam với trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Lần nào đến Huế tôi cũng đến thăm, lễ Phật và thưởng ngoạn tại ít nhất là 1 ngôi chùa.

Chùa Thiên Mụ có lẽ là nơi số lần có mặt của tôi nhiều nhất, đơn giản bởi tôi đã nhiều lần dẫn các đoàn khách du lịch đi Huế mà đến Huế đoàn nào cũng muốn đến thăm ngôi chùa nổi tiếng này.

Lần này, thời gian cho phép tôi có mặt Cố đô là đúng 1 ngày và tôi đã dành trọn quãng thời gian quý giá này cho chùa Huế. Một quyết định mà đến giờ nghĩ lại vẫn thấy quá đúng. Trời mưa đi chùa Huế thì hợp quá còn gì.

Bữa sáng tôi được 2 vợ chồng anh chị Phúc và Thư - Phật tử Huế - chiêu đãi tại quán chay Liên Hoa. Đây là 1 nhà hàng rất đẹp, thanh tao, gần gũi. Nhưng ấn tượng hơn đối với tôi là món ăn ngon và rẻ đến bất ngờ. Ăn món chay Huế trong mưa rơi và trời lạnh thấy ấm lòng lắm, nhất là khi những giọt nước mưa đã bắt đầu ngấm vào người. Câu hỏi không thể thiếu của anh chị Phúc, Thư - chủ nhà - khi bữa sáng kết thúc là “đi thăm chùa nào hôm nay”. Tôi chợt nghĩ, hình như cứ đến Huế là nhất định không thể không thưởng thức món chay và đi chùa!
chua tu hieuchua tu hieu 2

Điểm đầu tiên chúng tôi đến là chùa Thuyền Lâm. Tôi đến thăm chùa này bởi có thầy Pháp Mãn đang tu tập ở đây. Thầy Pháp Mãn còn khá trẻ, chắc chỉ dưới 40 tuổi thôi nhưng thầy có phong thái rất điềm đạm, thong dong, tự tại. Thầy ít nói nhưng luôn toát ra nguồn năng lượng lớn và sự bình an đến lạ kỳ. Thầy cười rất hiền từ và mọi cử chỉ đều rất ân cần và chu đáo. Tôi quen biết thầy tình cờ trong chuyến đi Bảo Lộc dự đại trai đàn chẩn tế cho 500 thai nhi ở chùa Phước Huệ tháng 7 năm 2011.

Tôi ấn tượng nhất với chùa Thuyền Lâm là cổng vào bằng tre giản đơn và gần gũi. Đây là một ngôi chùa rất cổ và nghe đâu từ những năm cuối thế kỷ thứ XVII đã diễn ra giới đàn truyền giới tại đây. Tôi rất thích kiến trúc bằng gỗ từ thời xưa. Tôi để ý đến những bức thư pháp đã cũ nhưng rất ý nghĩa và đẹp.

Tôi nhớ rằng mình đã đi bộ dưới mưa trong khuôn viên chùa Thuyền Lâm. Tôi mặc cho mưa Huế rơi vào mặt, vào tóc. Tôi có cảm giác rằng đón mưa ở ngôi chùa cổ này thú vị chứ không thấy lạnh hay sợ bệnh.

Chúng tôi ngồi uống nước và nói chuyện với thầy Pháp Mãn rất lâu. Thầy còn trẻ nhưng có khá nhiều câu chuyện để kể, có nhiều lời dạy của Đức Phật được nghe mà tôi thấy rất thú vị, ý nghĩa. Thầy nói chậm rãi, nhẹ nhàng để tôi học được khá nhiều từ phong cách của thầy. Khi ngồi trong chùa tôi nhận ra rằng, tu không phải nhiều hay ít mà là kết quả, rằng dù có đọc nhiều kinh sách hay có nhiều bằng cấp nhưng không có trải nghiệm thì “Phật tánh” vẫn không thể toát ra qua mỗi hành động và lời nói của ta được. Tôi nhận ra rằng, dù nếu ta có tu cả đời, tu đến già mà tham, sân, sy vẫn đầy mình thì ta vẫn còn rất xa chánh pháp.

Chúng tôi mải bên nhau để rồi trưa đến lúc nào không hay. Bữa trưa chúng tôi tiếp tục được bên thầy Pháp Mãn ở quán chay Thiền Tâm. Và phải thừa nhận rằng đây là quán rất rộng, rất đẹp và rất hợp với tên. Chúng tôi thọ trai trong tinh thần thiền và thấy tâm an lạc đến lạ thường. Cũng nhờ đến thăm chùa và thầy, giờ đây tôi đã hiểu rằng người Huế gọi thiền là thuyền, vậy nên Thuyền Lâm là rừng thiền. Hay thật!

Đầu giờ chiều, thầy trò cùng nhau đến chùa Phước Duyên để thăm thầy Thái Hòa. Thầy Pháp Mãn cho biết Hòa thượng đang đợi chúng tôi.

Phải thú thật, đây là lần đầu tiên tôi được vào trong thất riêng của Hòa thượng. Trong thất có quá nhiều tranh ảnh Phật và kinh sách. Hòa thượng Thái Hòa đón chúng tôi bằng nụ cười rất hiền từ và gần gũi. Cũng không thể không nói rằng Hòa thượng có phong cách rất Phật, rất từ bi mà mỗi lần gặp tôi đều thấy mình được an lạc vô cùng. Hình như chỉ cần ngồi gần thầy thôi là đã đủ lắm rồi, đối với tôi.

Tôi cũng bất ngờ rằng chùa Phước Duyên nằm ngay sau lưng chùa Thiên Mụ. Bất ngờ hơn khi tôi có mặt ở ngôi chùa làng, chứ không phải chùa thành phố Huế như vẫn nghĩ trước đó. Chúng tôi được thầy dẫn ra ngắm sông Bạch Yến và vùng đồng bằng rộng lớn bao quanh thất. Khuôn viên của chùa khá rộng, ước chừng đến 5 ngàn mét vuông. Trong khuôn viên chùa Phước Duyên có rất nhiều cây, nhưng cá nhân tôi ấn tượng nhất là những cây cau rất cao và đẹp, thẳng tắp và uy nghi. Thú vị hơn nữa là cây mai vàng, chưa tết mà đã nở hoa rực rỡ. Hòa thượng Thái Hòa nói rằng, mai nở sớm để đón chúng tôi. Thật là hạnh phúc khi mấy thầy trò cười vang làm cho không gian mang đầy không khí tết sớm.

Lần nào bên thầy, chúng tôi cũng được nghe pháp thoại. Có những lần ít thời gian, thầy cho chúng tôi những bài pháp thoại ngắn – mini dharma talk. Lần này chúng tôi được nghe các bài pháp giật gân “giết người cứu người”, “tu tập theo Phật giáo Đại thừa như thế nào cho đúng”, “Các Phật tử trẻ nên làm gì thời nay”. Chúng tôi bên thầy trọn buổi chiều và cũng được thầy giải đáp cho nhiều thắc mắc, làm sáng tỏ nhiều vấn đề của cư sỹ sơ cơ thiếu phước như tôi.

Chúng tôi được đi tham quan thiền đường, được đứng trên chánh điện tầng 2 để ngắm nhìn đồng quê và nông thôn Huế. Chùa Phước Duyên khá đồ sộ và phong cảnh nơi đây thì rất thơ mộng, hữu tình. Đứng ngắm mưa rơi tôi càng thấy phước và duyên của mình quá lớn khi được bên Hòa thượng cả buổi chiều. Tôi đứng và thầm mong: Bao giờ thầy mới mở các khóa tu dài ngày cho Phật tử chúng con, bao giờ được đón thầy ra bắc giảng pháp!
Linh_muLinh_mu 3Linh_mu 2

Không kịp ăn tối, mang theo kinh, sách và đĩa Hòa thượng Thích Thái Hòa tặng, chúng tôi rời chùa. Quay lại nhìn mới phát hiện ra thất nơi chúng tôi vừa ngồi bên thầy là Tàng Kinh Các. Trời đất! Thảo nào mà nhiều kinh kệ đến vậy!

Chúng tôi bắt xe đi tiếp đến chùa Từ Hiếu. Đây cũng là lần đầu tiên tôi đến với Tổ đình nổi tiếng này. Tôi hoàn toàn bị bất ngờ bởi khuôn viên chùa quá rộng. Lối vào từ cổng chùa như dẫn chúng tôi vào rừng. Rõ ràng Từ Hiếu là là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam văn hoá và lịch sử quý giá của cố đô Huế.

Trong lúc đợi thầy Từ Hải ra đón, tôi được người bạn đi cùng kể về Hoà thượng Nhất Ðịnh nổi tiếng của Từ Hiếu từ 2 thế kỷ trước. Thầy là người con hiếu thảo vô cùng. Chuyện kể rằng mẹ già của thầy bị bệnh rất nặng. Thầy lo đủ các loại thuốc mà không khỏi. Có người khuyên thầy phải mua cá để tẩm bổ thì mẹ mới khỏi được. Vì rất có hiếu với mẹ nên mặc cho thiên hạ đàm tiếu, thầy Nhất Định tìm mua cá về nấu cháo cho mẹ già ăn. Chuyện này đến tai vua Tự Đức – một vị vua cũng vốn rất hiếu thảo với mẹ. Vua rất cảm phục trước tấm lòng của thầy Nhất Định nên ban cho "Sắc tứ Từ Hiếu tự". Chùa được mang tên Từ Hiếu từ đó. “Từ là đức lớn của Phật, nếu không từ thì lấy gì tiếp độ chúng sinh cứu giúp vạn loại.Hiếu là hạnh đầu của Phật, nếu không hiếu thì lấy gì để đạt thông cõi nhiệm bao phủ đất trời”.

Chúng tôi vào lễ Phật trong chánh điện. Ở đây có bức tượng Phật Thích Ca Mâu Ni lớn, đẹp, với nụ cười rất thánh thiện. Quý thay khi bức tượng này có từ thời vua Tự Đức.

Chúng tôi ngồi uống trà tối bên nhau. Trời lạnh hơn và mưa lớn hơn. Trà nóng giữa bao la thiên nhiên làm chúng tôi thấy gần nhau hơn, thấy ấm áp lạ thường.

Chúng tôi được thầy Từ Hải chia sẻ kinh nghiệm tu tập, đặc biệt là cho giới trẻ. Thầy cho biết thêm, khi chúng tôi đến nơi, thầy đang dạy võ cho các em nhỏ. Thật là lạ và thú vị.

Đến chùa Từ Hiếu khi trời đã muộn nhưng không thể không đi tham quan chùa trong ánh đèn pin. Những bậc lên xuống và cao thấp. Những cột, mái và những bộ bàn ghế. Những câu đối và lan can. Tất cả đều bằng gỗ. Trong đêm trông rất huyền bí và thân cận, gần gũi. Bộ tràng kỷ nơi chúng tôi ngồi đã có “thâm niên” cả trăm năm.

Ngồi uống trà và đàm đạo dưới ánh đèn trong chùa Từ Hiếu tự nhiên tôi nghĩ: hình nhưchùa Huế không đồ sộ, nguy nga, xây dựng không tốn kém và quy mô như các ngôi chùa lớn ở phía Bắc như chùa Thầy, chùa Dâu, chùa Keo, chùa Trăm Gian, chùa Lý Triều Quốc Sư,…nhưng chùa Huế rất tinh tế vànhẹ nhàng, sâu sắc và kín đáo,thoáng đãng và ít rườm rà. Tôi luôn ấn tượng với những ngôi chùa Huế ở sự thân thiết, gần gũivà bình dị đến lạ thường.

Chúng tôi rời chùa Từ Hiếu đã là 18h20. Anh lái taxi nói rằng chuyến xe khách cuối cùng rời Huế đi Đà Nẵng là lúc 18h30. Ngồi trong taxi, quả thật tôi thấp thỏm không biết có kịp hay không. Bụng bảo dạ, nếu không kịp lại có thêm 1 đêm thứ 2 ngủ tại Huế. Tuy nhiên vẫn muốn về Đà Nẵng, bởi thành phố này và Hội An đang chờ đón. May thay, nhờ ơn Phật, chúng tôi đến nơi thì xe chuẩn bị lăn bánh. Hay nói chính xác, nếu 1 vị khách không bị quên điện thoại di động thì chúng tôi đã không kịp rồi.

Trên xe tôi nhẩm tính, nếu như mỗi chuyến đi Huế thăm được 3 ngôi chùa thì ít nhất phải mất 30 chuyến về cố đô tôi mới có cơ may khám phá hết những ngôi chùa nơi đây. Biết tôi là cư sỹ Hà Nội vào thăm Huế, người bạn đồng hành trên chuyến xe nói vanh vách về những ngôi chùa lớn của Huế như Thiên Mụ, Từ Đàm, Trúc Lâm, Tường Vân, Diệu Đế, Báo Quốc, Túy Vân, Thuyền Tôn,… Tôi ngạc nhiên khi anh còn nhớ cả năm xây dựng của từng ngôi chùa này.

Chùa Huế luôn để lại trong tâm tôi những tình cảm đặc biệt. Những con người Huế cũng có những ấn tượng rất tốt với tôi. Nhất là các quý thầy Huế. Mà trong những người thầy đã và đang hướng dẫn tôi tu học có rất nhiều Hòa thượng giỏi và thực sự là đạo cao đức trọng. Rời Huế tôi thật sự thấy bùi ngùi. Bởi chưa biết sau bao lâu nữa mới có cơ duyên quay lại đây.

TS Nguyễn Mạnh Hùng– Công ty sách Thái Hà

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/08/2020(Xem: 5725)
Hôm nay là ngày 4 tháng 6 năm 2002 nhằm ngày 24 tháng 4 năm Nhâm Ngọ, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 34 của mình với nhan đề là: “Cảm Tạ Xứ Đức”. Trong mùa an cư kiết hạ này tôi cố gắng hoàn thành tác phẩm để sau đó còn cho dịch ra tiếng Đức, nhằm cho người Đức cũng có thể xem và hiểu nhiều hơn về một dân tộc ở rất xa hơn nửa vòng trái đất, nhưng tại quê hương này đã cưu mang họ hơn 25 năm nay trong bàn tay từ ái đón nhận những người tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam đến tạm dung, sinh sống tại xứ Đức này.
08/08/2020(Xem: 7261)
Trong Kinh Pháp Cú có một số bài khá phong phú đề cao chánh pháp vì chánh pháp đóng một vai trò rất quan trọng trong trách nhiệm phát huy chánh kiến, tu tập trí tuệ, đưa người hành giả dần đến mục đích giác ngộ và giải thoát. Chánh pháp cũng giữ một vai trò rất quan trọng trong trách nhiệm hướng dẫn quần sinh. Chúng ta nhớ lại lời căn dặn của Đức Phật trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Này A Nan, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa người khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ tựa.”
05/08/2020(Xem: 7466)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu? Đức Phật ôn tồn trả lời; Này A Nan, cũng như một cái cây, nếu nghiêng về phía nào, thì khi người ta đốn ngã nó sẽ đỗ về phía đó (trọng lực), một chúng sanh sau khi chết cũng sẽ theo nghiệp mà đi như thế ấy.
05/08/2020(Xem: 6526)
Đại dịch coronavirus bùng phát lần nữa tại Việt Nam, Hoa Kỳ và hầu hết các nước trên thế giới. Tính tới tuần lễ đầu tháng 8/2020, thế giới có gần 700,000 người chết vì đại dịch, trong đó Việt Nam có ít nhất 6 người chết. Vụ Thống kê Dân số và Lao động cho biết VN có hàng chục triệu người mất việc, giảm giờ làm, giảm thu nhập… Kinh tế suy sụp mọi mặt, đặc biệt thê thảm là các ngành du lịch, khách sạn, tiệm ăn, chợ búa, giao thông. Toàn dân đều bị ảnh hưởng --- kể cả tăng ni trong và ngoài nước, khi các khóa tu và khóa lễ hủy bỏ vì giãn cách xã hội, Phật tử không thể tới chùa được. Trong hoàn cảnh này, hạnh nguyện hộ trì và bố thí cần được thực hiện theo lời Đức Phật dạy để bảo vệ sáu phương: Bố thí tài vật (giúp dân vượt khó, cúng dường chư tăng, ba mẹ, thầy cô giáo…), bố thí sinh mạng (liều thân vào nơi hiểm nạn để cứu người, như lính cứu hỏa thời bình, như nhân viên y tế thời đại dịch vì chăm sóc bệnh nhân cũng là chăm sóc Đức Phật), và rồi tận cùng của hạnh bố thí là giải thoát.
04/08/2020(Xem: 6397)
“Khi tôi thức dậy vào mỗi buổi sáng, bị giằng xé giữa mong muốn cứu thế giới và thiên hướng thưởng thức nó” - E.B. White Đời sống tâm linh ban đầu có thể tập trung vào sự tự diễn biến, nhưng khi chánh niệm và từ bi tâm phát triển, chúng ta tự nhiên trở nên chú ý đến các giá trị của xã hội chung quanh chúng ta. Khi chúng ta thực hành như vậy, chúng ta có thể thấy lời nguyện phổ biến về hạnh phúc thông qua sự tham lam và chủ nghĩa tiêu dùng xa xỉ dư thừa ngày càng nông cạn và sai lầm. Trái tim của tôi trở nên thông minh hơn và hài lòng hơn.
03/08/2020(Xem: 5907)
Giáo sư Lewis Lancaster sinh ngày 27 tháng 10 năm 1932, Giáo sư danh dự của Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á (East Asian Languages and Cultures) tại Đại học California, Berkeley, Hoa Kỳ, đã từng là Chủ tịch, Giáo sư phụ trợ, Chủ tịch Hội đồng xét Luận án (Chair of the Dissertation Committee) của đại học University of The West (California) từ năm 1992. Ông còn là Giáo sư Danh dự của khoa Ngôn ngữ Đông Á (East Asian Languages), Khoa trưởng Khoa Phật học (Buddhist Studies) thuộc đại học UC Berkeley; và đã từng giữ chức vụ Viện trưởng (2004-2006).
02/08/2020(Xem: 6247)
Trong khoảng chục ngày nay, các báo Việt Nam đưa tin toàn chuyện dịch bệnh CoViD-19 , vì nó đang đe dọa trở lại sau một thời gian 3 tháng tạm thời im ắng. Ngay lúc này, giở ra đọc lại sách Chớ quên mình là nước - Tạp văn, khảo luận về nước và môi trường của Văn Công Tuấn mà tôi đã được tác giả gởi tặng từ một tháng trước, ý thức về tầm quan trọng đối với môi trường sống của tôi càng trở nên đậm nét.
02/08/2020(Xem: 8417)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì một mục đích duy nhất làm cho tất cả chúng sanh được giác ngộ, thoát khỏi khổ đau được an lạc giải thoát. Vì thế, trong kinh nói: “Như Lai thị hiện nơi cuộc đời này, là để xua tan bóng tối vô minh và chỉ cho nhân loại con đường đi đến sự đoạn tận của khổ đau”.
01/08/2020(Xem: 6101)
Cư sĩ Sandy Huntington sinh ngày 24 tháng 2 năm 1949, ông sinh ra và trưởng thành tại East Lansing, Michigan, một thành phố thuộc quận quận trong tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ và học đại tại bang Michigan. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông đi du lịch đến Na Uy, học tiếng Na Uy và bắt đầu say mê học ngôn ngữ và văn học suốt đời.
01/08/2020(Xem: 5097)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.Từ thời cổ xưa con người sống trong hang đá rừng rậm chưa có chữ viết chưa có lời nói, nên con người phát biểu tình cảm hay ý muốn bằng âm thanhgầm gừ,ậm ừ … từ trong cổ họng, hoặcbiểu lộ bản năng cảm xúc bằngánh mắt hay cử chỉ quơ tay động chân.Đời sống của con người lúc ấy không mấy khác với đời sống của thú rừng hoang dã.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]