Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một ngày thăm chùa Huế

20/05/201211:27(Xem: 8336)
Một ngày thăm chùa Huế

image

Nói đến chùa, không thể không nhắc đến Huế. Cố đô là nơi có mật độ chùa chiền thuộc loại cao nhất Việt Nam với trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Lần nào đến Huế tôi cũng đến thăm, lễ Phật và thưởng ngoạn tại ít nhất là 1 ngôi chùa.

Chùa Thiên Mụ có lẽ là nơi số lần có mặt của tôi nhiều nhất, đơn giản bởi tôi đã nhiều lần dẫn các đoàn khách du lịch đi Huế mà đến Huế đoàn nào cũng muốn đến thăm ngôi chùa nổi tiếng này.

Lần này, thời gian cho phép tôi có mặt Cố đô là đúng 1 ngày và tôi đã dành trọn quãng thời gian quý giá này cho chùa Huế. Một quyết định mà đến giờ nghĩ lại vẫn thấy quá đúng. Trời mưa đi chùa Huế thì hợp quá còn gì.

Bữa sáng tôi được 2 vợ chồng anh chị Phúc và Thư - Phật tử Huế - chiêu đãi tại quán chay Liên Hoa. Đây là 1 nhà hàng rất đẹp, thanh tao, gần gũi. Nhưng ấn tượng hơn đối với tôi là món ăn ngon và rẻ đến bất ngờ. Ăn món chay Huế trong mưa rơi và trời lạnh thấy ấm lòng lắm, nhất là khi những giọt nước mưa đã bắt đầu ngấm vào người. Câu hỏi không thể thiếu của anh chị Phúc, Thư - chủ nhà - khi bữa sáng kết thúc là “đi thăm chùa nào hôm nay”. Tôi chợt nghĩ, hình như cứ đến Huế là nhất định không thể không thưởng thức món chay và đi chùa!
chua tu hieuchua tu hieu 2

Điểm đầu tiên chúng tôi đến là chùa Thuyền Lâm. Tôi đến thăm chùa này bởi có thầy Pháp Mãn đang tu tập ở đây. Thầy Pháp Mãn còn khá trẻ, chắc chỉ dưới 40 tuổi thôi nhưng thầy có phong thái rất điềm đạm, thong dong, tự tại. Thầy ít nói nhưng luôn toát ra nguồn năng lượng lớn và sự bình an đến lạ kỳ. Thầy cười rất hiền từ và mọi cử chỉ đều rất ân cần và chu đáo. Tôi quen biết thầy tình cờ trong chuyến đi Bảo Lộc dự đại trai đàn chẩn tế cho 500 thai nhi ở chùa Phước Huệ tháng 7 năm 2011.

Tôi ấn tượng nhất với chùa Thuyền Lâm là cổng vào bằng tre giản đơn và gần gũi. Đây là một ngôi chùa rất cổ và nghe đâu từ những năm cuối thế kỷ thứ XVII đã diễn ra giới đàn truyền giới tại đây. Tôi rất thích kiến trúc bằng gỗ từ thời xưa. Tôi để ý đến những bức thư pháp đã cũ nhưng rất ý nghĩa và đẹp.

Tôi nhớ rằng mình đã đi bộ dưới mưa trong khuôn viên chùa Thuyền Lâm. Tôi mặc cho mưa Huế rơi vào mặt, vào tóc. Tôi có cảm giác rằng đón mưa ở ngôi chùa cổ này thú vị chứ không thấy lạnh hay sợ bệnh.

Chúng tôi ngồi uống nước và nói chuyện với thầy Pháp Mãn rất lâu. Thầy còn trẻ nhưng có khá nhiều câu chuyện để kể, có nhiều lời dạy của Đức Phật được nghe mà tôi thấy rất thú vị, ý nghĩa. Thầy nói chậm rãi, nhẹ nhàng để tôi học được khá nhiều từ phong cách của thầy. Khi ngồi trong chùa tôi nhận ra rằng, tu không phải nhiều hay ít mà là kết quả, rằng dù có đọc nhiều kinh sách hay có nhiều bằng cấp nhưng không có trải nghiệm thì “Phật tánh” vẫn không thể toát ra qua mỗi hành động và lời nói của ta được. Tôi nhận ra rằng, dù nếu ta có tu cả đời, tu đến già mà tham, sân, sy vẫn đầy mình thì ta vẫn còn rất xa chánh pháp.

Chúng tôi mải bên nhau để rồi trưa đến lúc nào không hay. Bữa trưa chúng tôi tiếp tục được bên thầy Pháp Mãn ở quán chay Thiền Tâm. Và phải thừa nhận rằng đây là quán rất rộng, rất đẹp và rất hợp với tên. Chúng tôi thọ trai trong tinh thần thiền và thấy tâm an lạc đến lạ thường. Cũng nhờ đến thăm chùa và thầy, giờ đây tôi đã hiểu rằng người Huế gọi thiền là thuyền, vậy nên Thuyền Lâm là rừng thiền. Hay thật!

Đầu giờ chiều, thầy trò cùng nhau đến chùa Phước Duyên để thăm thầy Thái Hòa. Thầy Pháp Mãn cho biết Hòa thượng đang đợi chúng tôi.

Phải thú thật, đây là lần đầu tiên tôi được vào trong thất riêng của Hòa thượng. Trong thất có quá nhiều tranh ảnh Phật và kinh sách. Hòa thượng Thái Hòa đón chúng tôi bằng nụ cười rất hiền từ và gần gũi. Cũng không thể không nói rằng Hòa thượng có phong cách rất Phật, rất từ bi mà mỗi lần gặp tôi đều thấy mình được an lạc vô cùng. Hình như chỉ cần ngồi gần thầy thôi là đã đủ lắm rồi, đối với tôi.

Tôi cũng bất ngờ rằng chùa Phước Duyên nằm ngay sau lưng chùa Thiên Mụ. Bất ngờ hơn khi tôi có mặt ở ngôi chùa làng, chứ không phải chùa thành phố Huế như vẫn nghĩ trước đó. Chúng tôi được thầy dẫn ra ngắm sông Bạch Yến và vùng đồng bằng rộng lớn bao quanh thất. Khuôn viên của chùa khá rộng, ước chừng đến 5 ngàn mét vuông. Trong khuôn viên chùa Phước Duyên có rất nhiều cây, nhưng cá nhân tôi ấn tượng nhất là những cây cau rất cao và đẹp, thẳng tắp và uy nghi. Thú vị hơn nữa là cây mai vàng, chưa tết mà đã nở hoa rực rỡ. Hòa thượng Thái Hòa nói rằng, mai nở sớm để đón chúng tôi. Thật là hạnh phúc khi mấy thầy trò cười vang làm cho không gian mang đầy không khí tết sớm.

Lần nào bên thầy, chúng tôi cũng được nghe pháp thoại. Có những lần ít thời gian, thầy cho chúng tôi những bài pháp thoại ngắn – mini dharma talk. Lần này chúng tôi được nghe các bài pháp giật gân “giết người cứu người”, “tu tập theo Phật giáo Đại thừa như thế nào cho đúng”, “Các Phật tử trẻ nên làm gì thời nay”. Chúng tôi bên thầy trọn buổi chiều và cũng được thầy giải đáp cho nhiều thắc mắc, làm sáng tỏ nhiều vấn đề của cư sỹ sơ cơ thiếu phước như tôi.

Chúng tôi được đi tham quan thiền đường, được đứng trên chánh điện tầng 2 để ngắm nhìn đồng quê và nông thôn Huế. Chùa Phước Duyên khá đồ sộ và phong cảnh nơi đây thì rất thơ mộng, hữu tình. Đứng ngắm mưa rơi tôi càng thấy phước và duyên của mình quá lớn khi được bên Hòa thượng cả buổi chiều. Tôi đứng và thầm mong: Bao giờ thầy mới mở các khóa tu dài ngày cho Phật tử chúng con, bao giờ được đón thầy ra bắc giảng pháp!
Linh_muLinh_mu 3Linh_mu 2

Không kịp ăn tối, mang theo kinh, sách và đĩa Hòa thượng Thích Thái Hòa tặng, chúng tôi rời chùa. Quay lại nhìn mới phát hiện ra thất nơi chúng tôi vừa ngồi bên thầy là Tàng Kinh Các. Trời đất! Thảo nào mà nhiều kinh kệ đến vậy!

Chúng tôi bắt xe đi tiếp đến chùa Từ Hiếu. Đây cũng là lần đầu tiên tôi đến với Tổ đình nổi tiếng này. Tôi hoàn toàn bị bất ngờ bởi khuôn viên chùa quá rộng. Lối vào từ cổng chùa như dẫn chúng tôi vào rừng. Rõ ràng Từ Hiếu là là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam văn hoá và lịch sử quý giá của cố đô Huế.

Trong lúc đợi thầy Từ Hải ra đón, tôi được người bạn đi cùng kể về Hoà thượng Nhất Ðịnh nổi tiếng của Từ Hiếu từ 2 thế kỷ trước. Thầy là người con hiếu thảo vô cùng. Chuyện kể rằng mẹ già của thầy bị bệnh rất nặng. Thầy lo đủ các loại thuốc mà không khỏi. Có người khuyên thầy phải mua cá để tẩm bổ thì mẹ mới khỏi được. Vì rất có hiếu với mẹ nên mặc cho thiên hạ đàm tiếu, thầy Nhất Định tìm mua cá về nấu cháo cho mẹ già ăn. Chuyện này đến tai vua Tự Đức – một vị vua cũng vốn rất hiếu thảo với mẹ. Vua rất cảm phục trước tấm lòng của thầy Nhất Định nên ban cho "Sắc tứ Từ Hiếu tự". Chùa được mang tên Từ Hiếu từ đó. “Từ là đức lớn của Phật, nếu không từ thì lấy gì tiếp độ chúng sinh cứu giúp vạn loại.Hiếu là hạnh đầu của Phật, nếu không hiếu thì lấy gì để đạt thông cõi nhiệm bao phủ đất trời”.

Chúng tôi vào lễ Phật trong chánh điện. Ở đây có bức tượng Phật Thích Ca Mâu Ni lớn, đẹp, với nụ cười rất thánh thiện. Quý thay khi bức tượng này có từ thời vua Tự Đức.

Chúng tôi ngồi uống trà tối bên nhau. Trời lạnh hơn và mưa lớn hơn. Trà nóng giữa bao la thiên nhiên làm chúng tôi thấy gần nhau hơn, thấy ấm áp lạ thường.

Chúng tôi được thầy Từ Hải chia sẻ kinh nghiệm tu tập, đặc biệt là cho giới trẻ. Thầy cho biết thêm, khi chúng tôi đến nơi, thầy đang dạy võ cho các em nhỏ. Thật là lạ và thú vị.

Đến chùa Từ Hiếu khi trời đã muộn nhưng không thể không đi tham quan chùa trong ánh đèn pin. Những bậc lên xuống và cao thấp. Những cột, mái và những bộ bàn ghế. Những câu đối và lan can. Tất cả đều bằng gỗ. Trong đêm trông rất huyền bí và thân cận, gần gũi. Bộ tràng kỷ nơi chúng tôi ngồi đã có “thâm niên” cả trăm năm.

Ngồi uống trà và đàm đạo dưới ánh đèn trong chùa Từ Hiếu tự nhiên tôi nghĩ: hình nhưchùa Huế không đồ sộ, nguy nga, xây dựng không tốn kém và quy mô như các ngôi chùa lớn ở phía Bắc như chùa Thầy, chùa Dâu, chùa Keo, chùa Trăm Gian, chùa Lý Triều Quốc Sư,…nhưng chùa Huế rất tinh tế vànhẹ nhàng, sâu sắc và kín đáo,thoáng đãng và ít rườm rà. Tôi luôn ấn tượng với những ngôi chùa Huế ở sự thân thiết, gần gũivà bình dị đến lạ thường.

Chúng tôi rời chùa Từ Hiếu đã là 18h20. Anh lái taxi nói rằng chuyến xe khách cuối cùng rời Huế đi Đà Nẵng là lúc 18h30. Ngồi trong taxi, quả thật tôi thấp thỏm không biết có kịp hay không. Bụng bảo dạ, nếu không kịp lại có thêm 1 đêm thứ 2 ngủ tại Huế. Tuy nhiên vẫn muốn về Đà Nẵng, bởi thành phố này và Hội An đang chờ đón. May thay, nhờ ơn Phật, chúng tôi đến nơi thì xe chuẩn bị lăn bánh. Hay nói chính xác, nếu 1 vị khách không bị quên điện thoại di động thì chúng tôi đã không kịp rồi.

Trên xe tôi nhẩm tính, nếu như mỗi chuyến đi Huế thăm được 3 ngôi chùa thì ít nhất phải mất 30 chuyến về cố đô tôi mới có cơ may khám phá hết những ngôi chùa nơi đây. Biết tôi là cư sỹ Hà Nội vào thăm Huế, người bạn đồng hành trên chuyến xe nói vanh vách về những ngôi chùa lớn của Huế như Thiên Mụ, Từ Đàm, Trúc Lâm, Tường Vân, Diệu Đế, Báo Quốc, Túy Vân, Thuyền Tôn,… Tôi ngạc nhiên khi anh còn nhớ cả năm xây dựng của từng ngôi chùa này.

Chùa Huế luôn để lại trong tâm tôi những tình cảm đặc biệt. Những con người Huế cũng có những ấn tượng rất tốt với tôi. Nhất là các quý thầy Huế. Mà trong những người thầy đã và đang hướng dẫn tôi tu học có rất nhiều Hòa thượng giỏi và thực sự là đạo cao đức trọng. Rời Huế tôi thật sự thấy bùi ngùi. Bởi chưa biết sau bao lâu nữa mới có cơ duyên quay lại đây.

TS Nguyễn Mạnh Hùng– Công ty sách Thái Hà

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4711)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5013)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4510)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3741)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7553)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4743)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6173)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12128)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5350)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]