Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tùy duyên và 7 đức hạnh của người tu

25/04/201108:57(Xem: 9699)
Tùy duyên và 7 đức hạnh của người tu


ngoi thien

TÙY DUYÊN & BẢY ĐỨC HẠNH
của NGƯỜI TU





Phật hoàng Trần Nhân Tông có 4 câu kết cho bài “Cư trần lạc đạo phú” rất hay và cao siêu:                                                                                                      


“ Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

 Đói đến thì ăn mệt nghỉ liền  
Trong nhà sẵn báu thôi tìm kiếm  
Đối cảnh không tâm hỏi chi thiền !”

Tiếp theo tinh thần đó, mỗi chúng ta cũng có thể thực hiện theo:    
                                              

Ở đời vui đạo sống tùy duyên
Khỏe năng hành thiện mệt tịnh thiền  
Tâm thường thanh tịnh chiêu cảm tốt
Phật tánh trong ta mãi hiện tiền

Tùy duyên là hoan hỷ chấp nhận những gì có và xảy ra trong hiện tại, tùy theo duyên mà sống, bình thường trong mọi lúc, là sao cũng được, không phân biệt, chấp trước. Ví như Ngài Lục Tổ Huệ Năng khi chưa đủ duyên, phải ẩn nhẫn trong rừng, cùng sống với đám thợ săn, đem rau lụt chung với nồi nước thịt, nhưng vẫn giữ được khí tiết người tu. Hay câu chuyện về hai huynh đệ cùng đi ngang qua một giòng sông, gặp một cô gái muốn qua sông khi trời đã xế chiều, mà không có đò, vị sư huynh thấy tội nghiệp, bèn đưa lưng cõng giúp cô gái qua sông rồi bỏ xuống ngay, còn vị sư đệ thì do sợ phạm giới, nên không dám giúp, nhưng khi đi được một quảng đường dài, vị sư đệ mới trách phiền sư huynh là tại sao phạm giới, khi cõng cô gái trên lưng, vị sư huynh mới trả lời, ta cõng nhưng đã bỏ cô gái lại bên bờ sông từ lâu rồi, sao đệ còn mang cô ấy theo đến đây làm chi vậy ? tùy duyên là vậy đấy, khi gặp việc cần giúp thì sẵn sàng giúp, xong rồi sẵn sàng buông xuống, không chấp chứa nữa, chứ không phân biệt, câu nệ, quá “giới cấm thủ” như chàng sư đệ, để phải dính mắc nhiều phiền não, mà không cứu giúp được ai.

Sống được như vậy, ta sẽ không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh và những thị phi của thiên hạ, bụng đói thì có gì ăn nấy cho no, chứ bụng đâu đòi hỏi phải có cao lương mỹ vị, mệt thì nghỉ chứ đâu cần phải nhiều trăn trở, lo nghĩ chuyện quá khứ, tương lai. Như vậy ta sẽ có bữa ăn ngon và giấc ngủ khỏe, nếu không được như vậy thì ta phải nhiều khổ cực, để lo chạy theo những ham muốn tầm thường, mà không bao giờ thỏa mãn được, vì “lòng tham không đáy” tất cả đều do tâm ta nhiều vọng tưởng mà thôi.

Với những vị đang sống ở những nơi với đầy đủ tiện nghi vật chất, thì tùy thuận theo đó mà vận dụng, cũng nên có xe hơi hoặc sữ dụng những phương tiện hiện đại để được an toàn, nhanh lợi đến những nơi hoằng pháp lợi sanh, hoặc dùng công nghệ thông tin để truyền giáo, đem lợi ích an vui đến mọi người. Dùng phương tiện hiện đại, đi giữa shop với bao nhiêu cám dỗ, nhưng vẫn luôn tĩnh giác, không ham và đắm nhiễm với ngũ dục, lục trần mà lợi lạc được quần sanh, luôn hướng đến con đường giải thoát, giác ngộ và được an lạc trong giờ phút hiện tại, là một người rất đáng trân trọng và cũng rất cần thiết, đó là tùy duyên nhưng bất biến vậy.

Khi chưa có nơi thoải mái phù hợp với sức khỏe để cùng tu, cho được giải thoát, giác ngộ, thì “tự lực” tạm ở “thất” hoặc một nơi thanh vắng mà thân an, tâm lạc, hằng ngày vẫn công phu hành trì tốt, thỉnh thoảng đi tham dự các khóa tu thiền, tịnh ở các đạo tràng chân chính, thì vẫn còn hay hơn là ở chùa, phải nợ của đàn na tín thí, mà còn nhiều vọng tưởng, chạy theo danh lợi, với nhiều phân biệt, dính mắc, thị phi, đố kỵ, sống không thật, thiếu vắng tình người… thì đường tu không tiến mà tội lỗi ngút ngàn.

 Hoặc là như Tổ Bồ Đề Đạt Ma, khi thấy chưa đủ duyên, để độ cho Vua Lương Võ Đế, thì vào hang diện bích chín năm, mới nhận đệ tử và truyền pháp, chứ không thể nôn nóng muốn cứu độ chúng sanh, mà phải chìu theo quan điểm sai lầm (xây chùa, tạo tượng, đúc chuông là công đức) của Vua để nhiều động loạn, bị lệ thuộc rồi đánh mất mình. Đó là tâm thái sống minh triết, an nhiên trước mọi biến động và đầy áp lực của cuộc đời.

Tùy duyên là gặp duyên gì theo duyên ấy, nếu gặp thuận duyên, biết rằng có nhiều phước báo thì ta vận dụng cơ hội để hoàn thành những hoài bão và kế hoạch đã định, tiếp tục gieo tạo duyên lành, bèn nếu gặp nghịch duyên, biết rằng ta thiếu phước, thì ta phải nỗ lực tạo phước đức, sám hối những lỗi lầm đã tạo, phấn đấu vượt qua những gian nan thử thách, để rèn luyện ý chí và năng lực, hầu vững vàng cho sự nghiệp tương lai.             

Cho nên Phật chỉ dạy chúng ta là hãy “tùy duyên, không phan duyên”. Phan duyên là chưa có khả năng, mà tự mình muốn làm như thế nầy, thế nọ, rồi phải trói buộc, chạy theo duyên, dù phải nhiều nhọc nhằn vay nợ, để rồi nhiều dính mắc, hệ lụy, khổ đau; tùy duyên là thuận theo tự nhiên, sống bình thường để có được tâm bình thường, vì “tâm bình thường là đạo”, sống đơn giản, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, không ham danh lợi mà cưỡng cầu, không lấy sự thành đạt về vật chất làm cứu cánh và vinh hạnh, để khỏi phải nhiều lo toan, tính toán, hầu được sống tự tại, vừa khỏe, vừa đúng pháp.

Khi chưa đủ duyên để “lập đạo tràng” và sống cùng “tăng thân”, hầu tiến tu đạo nghiệp, thì ta ẩn dật thực hiện một hay nhiều “đức hạnh” trong “bảy đức hạnh” của Đức Phật đã dạy cho người tu giải thoát:

1/ “Thích giản dị, không thích sống rờm rà, cầu kỳ”. Đó là một lối sống đơn giản, không hao tốn tiền bạc, không rờm rà, ít muốn biết đủ.
2/ “Ưa thích yên lặng, không thích nói nhiều”. Đó là một lối sống trầm lặng, sống độc cư, sống một mình.
 3/ “Ít ngủ nghỉ, không ham ngủ”. Đó là lối sống của người thông minh, sáng suốt, minh mẫn, tĩnh giác.
 4/ “Không kết bè, kết bạn, không nói những điều vô ích”. Đó là lối sống độc cư phòng hộ sáu căn, lối sống của những bậc chân tu, của những người thoát tục, xuất thế gian.
5/ “Không tự khoe khoang trong khi mình thiếu đức”. Đó là lối sống khiêm tốn của những bậc Hiền Thánh,                                                           6/ “Không kết bạn với những người xấu ác”.
7/ “Thích ở một mình nơi rừng núi thanh vắng                                                                                                                                                      

“Đây là bảy đức hạnh rất tuyệt vời, nếu một người thực hiện bảy đức hạnh này thì ngay trong đời này đã tìm thấy sự giải thoát hiện tiền không cần phải tu tập pháp nào khác nữa”.

Tóm lại, người muốn tiến tu thì phải sống “tùy duyên” sẽ tiêu được nghiệp cũ, nhưng vẫn tuệ tri và nỗ lực hành trì những việc tốt trong khả năng có thể, xem “duyên” chỉ là phương tiện giúp ta đạt đến cứu cánh an lạc, thoát ly sinh tử và hãy trọn vẹn “bảy đức hạnh” này sẽ có cuộc sống thanh tịnh, không tạo nghiệp mới, sẽ chiêu cảm được nhiều điều tốt, sống an nhiên, hợp với bản hoài chư Phật.

An Lạc thất, Adelaide Nam Úc những ngày tịnh dưỡng .

Thích Viên Thành

 (Hạnh Trung)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4934)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5075)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4429)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4089)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4688)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4150)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3594)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6875)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6950)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5046)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]