Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quan hệ thầy trò trong kinh, luật Phật giáo

04/04/201207:12(Xem: 7408)
Quan hệ thầy trò trong kinh, luật Phật giáo

Quan hệ thầy trò
trong kinh, luật Phật giáo

HT.Thích Trí Quảng

Mối quan hệ thầy trò là một trong những mối quan hệ căn bản của con người có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến tri thức, tư tưởng, phẩm cách, đạo đức, v.v… và đặc biệt là trong Phật giáo, mối quan hệ thầy trò mang đậm tính cách kế thừa về tâm linh, về sự tu chứng, về đức hạnh, về hành Bồ tát đạo…

Để trở thành người đệ tử của Phật, điều đầu tiên và cần thiết là quy y Phật, Pháp, Tăng. Với sự nương tựa Tam bảo đầu tiên, thì Phật là vị Thầy dẫn đường vĩ đại nhất đối với người đệ tử, mà kinh điển thường gọi là vị đại Đạo sư, từ đây mối quan hệ thầy trò trong đạo được hình thành.

Ngày nay, Đức Phật đã vắng bóng trên cuộc đời, trên bước đường tu học theo lời di huấn của Ngài, người đệ tử Phật được sự dạy dỗ, uốn nắn, giáo dưỡng của nhiều vị thầy như thầy truyền Tam quy Ngũ giới, thầy thế phát xuất gia, thầy giáo thọ, thầy A xà lê, v.v… Tuy nhiên, trong các vị thầy này, thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn được hàng đệ tử tôn kính và ngưỡng vọng như bậc thầy tối thượng, vì chính Đức Phật đã khai mở con đường cho mọi người thoát khỏi kiếp trầm luân sanh tử luân hồi, đến bến bờ giác ngộ, giải thoát trọn vẹn.

Theo Phật giáo, tri thức và đạo đức là hai điều cần thiết tối ưu mà một người thầy nhất định phải có. Vì có tri thức thì mới truyền trao tri thức cho người được và không phải chỉ có tri thức, điều quan trọng không kém là tri thức của người thầy trong đạo phải đặt nền tảng trên đời sống phạm hạnh. Thật vậy, theo kinh Cụ túc giới trong kinh Tăng chi, tiêu chuẩn trước tiên của một bậc thầy là phải thể hiện được giới hạnh trong cuộc sống của mình. Giới nói theo ngày nay là những nguyên tắc sống đạo đức căn bản theo thế gian và siêu xuất thế gian được mọi người kính phục. Đức Phật là bậc thầy điển hình vẹn toàn cả tri thức và đời sống thánh thiện tuyệt đối, cho nên Ngài giáo hóa thành công một cách nhẹ nhàng mọi người từ vua chúa cho đến hàng trưởng giả, hay thứ dân trong xã hội đương thời.

Chẳng những có tri thức và đạo đức, kinh điển ghi rõ phẩm chất của người thầy còn thể hiện tuyệt đối lòng từ bi vô ngã vị tha trong việc dạy dỗ, “Xem học trò như đứa con một của mình mà không cần sự trả ơn, không vì tiếng tăm, không vì lợi dưỡng, cũng không cầu sự vui cho chính mình” (Kinh Ưu bà tắc giới, phẩm 13, Thâu phục đệ tử, HT.Tịnh Nghiêm dịch). Điều này cho thấy tính cách thiêng liêng của tình Thầy trò trong đạo thật là cảm động.

Ngoài ra, để thành công trong việc dạy dỗ học trò, người thầy còn phải biết rõ căn tánh, hành nghiệp và khả năng của học trò, tức là biết rõ khả năng, tâm lý và động cơ phát xuất từ nội tâm của học trò. Điều này tất nhiên không đơn giản, vì căn tánh, hành nghiệp và khả năng của mỗi người học trò đều khác nhau. Và một khi đã hiểu rõ như vậy, thì người thầy sẽ có phương cách giáo hóa tương ưng, để bảo vệ Chánh pháp. Khi Phật tại thế, có một số người xấu ác len lỏi vào hàng cư sĩ tín tâm để chỉ trích, phá hoại sự hòa hợp của chư Tăng. Đức Thế Tôn đã kiên quyết đuổi họ ra khỏi đoàn thể. (Theo Đại tạng kinh Việt Nam, Tăng Chi Bộ IV, phẩm Niệm, phần Bình bát, VNCPHVN ấn hành 1997, trang 55). Chẳng những dạy dỗ về tri thức và đạo đức, Đức Thế Tôn còn chăm lo sức khỏe và đời sống vật chất cho các Tỳ-kheo bệnh hoạn.

Cũng như người thầy có tri thức, người học trò cũng phải gieo trồng và phát huy tri thức của mình bằng cách đặt hết tâm trí vào việc học tập; vì đi theo con đường Phật dạy thì trí tuệ là sự nghiệp của người tu. Chẳng những hiểu biết những gì người đời biết, mà còn phải nỗ lực tiến xa hơn, hiểu biết những gì mà chỉ có Thánh nhân và Phật biết.

Song song với việc mở mang trí tuệ, người học trò phải tiếp nối được nếp sống đạo hạnh mà Phật và Thầy, Tổ đã thể hiện, nói lên tinh thần thừa kế chân chính là “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Thật vậy, khi ta có việc làm tương ưng với vị thân giáo sư, thì người thầy mới thích thú và truyền trao những điều sở trường để ta thừa kế tiếp sự nghiệp tinh thần mà cả một đời của thầy dày công xây dựng. Đó là kinh nghiệm của tôi khi trình luận án tiến sĩ với Giáo sư Viện trưởng Viện Đại học Rissho, Nhật Bản. Nhờ có mối quan hệ tri thức và tâm linh với vị thân giáo sư này, cho nên ông đã chỉ dạy tôi một cách tường tận phương hướng nghiên cứu và làm đạo sau này. Thầy trò có tâm đắc trong việc truyền trao và tiếp thu như vậy, nên ông hy sinh cả thì giờ quý báu để dạy tôi và còn dành cảm tình đặc biệt cho tôi vì đã tìm được người thừa kế được sự nghiệp của ông. Thiết nghĩ đó là tâm lý tự nhiên của tất cả giáo sư dù là đạo hay đời.

Tóm lại, mối quan hệ thầy trò hoàn toàn tốt đẹp qua chính tấm gương giáo hóa ngời sáng của Đức Phật và chư vị Thánh Tăng, chư vị Tổ sư còn lưu lại trong kinh điển đã nêu rõ tính chất hoàn mỹ của sự giáo dục theo Phật giáo. Điều này chẳng những có giá trị từ nghìn xưa mà cho đến ngày nay, nhất là trong thời hiện đại, mối quan hệ thầy trò trong đạo nói riêng và sự giáo dục theo Phật giáo nói chung, hẳn sẽ là đáp số vô cùng cần thiết cho những vụ việc phi đạo đức đang diễn ra như học trò chửi mắng thầy cô, học trò đánh thầy cô trọng thương, hoặc giáo viên uống rượu đánh nhau và những cảnh bạo lực trong học đường… đang gây nhiều bức xúc trong xã hội chúng ta.

Thiết nghĩ cuộc sống con người có vô số mối tương quan tương duyên, mà trong đó, mối quan hệ thầy trò đóng vai trò quan trọng cho sự hình thành tư cách đạo đức và trí tuệ cho mỗi người, từ đó xây dựng được sự học tập tốt đẹp ở học đường, xây dựng được gia đình có nề nếp, hạnh phúc và tạo dựng được xã hội trật tự kỷ cương và phát triển bền vững. Để đạt được thành quả như vậy, thì mối quan hệ thầy trò theo Phật giáo là mô hình thực sự có giá trị đáng được quan tâm, học tập và làm theo trong thời đại ngày nay.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5218)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5649)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4512)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5101)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4669)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5361)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4851)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9583)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4968)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4218)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]