Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giúp vợ thoát khỏi mê tín dị đoan

31/03/201218:57(Xem: 11480)
Giúp vợ thoát khỏi mê tín dị đoan
Giúp vợ thoát khỏi mê tín dị đoan
TT. Thích Nhật Từ

files.php?file=020___MAGD___Giup_Vo_Thoat_Khoi_Me_Tin_Di_Doan__R__4_106363786Hỏi:Vợ chồng con lấy nhau đưọc 10 năm nay, đã có hai cháu, một lên 8, một lên 5. Con là kỹ sư tin học, vợ con là giáo viên. Cuộc sống gia đình không khá giả, chỉ đủ sống và luôn đầm ấm. Song nửa năm trở lại đây, vợ con nghe theo chúng bạn đi cúng lễ ở khắp nơi, tiêu tốn hàng chục triệu đồng cho việc lễ bái. Con đã khuyên can nhiều lần nhưng cô ấy không nghe, tồi tệ hơn nữa là giờ cô ấy một mực yêu cầu con phải đi dự lễ cùngcô ấy. Con không đi viện cớ là bận việc công ty, cô ấy đi tối ngày, conphải ở nhà chăm sóc hai cháu, cô ấy không chịu, dọa nếu không theo cô ấy thì gia đình sẽ tan nát, có người chết sớm. Tuần trước, con và cháu bé thứ hai bị sốt siêu vi trùng, cô ấy không những không ở nhà chăm sóc mà còn trách cứ con, tại con không chịu đi lễ nên “bề trên” phạt cho ốm,nếu không chịu thay đổi sẽ còn ốm nữa. Trời ơi, con không nhận ra vợ con nữa rồi, một cô giáo hiền hòa, mẫu mực giờ thành ra người mê tín dịđoan, cuồng tín đến mù quáng. Con phải làm gì để “đánh thức” vợ con, thưa Thầy? Liệu con có thể giúp cô ấy tỉnh ra được không?(Trần Đức Quang, Bắc Ninh)

Trả lời:

Đọc thư của anh, tôi thông cảm nỗi khổ tâm và những xáo trộn hạnh phúc gia đình do vợ anh quá mê tín dị đoan gây ra. Mê tín làm cho con người trở nên sợ hãi, yếu đuối, lệ thuộc tâm lý, làm và nói những chuyện gàn dỡ. Để giúp vợ thoát khỏi mây mù mê tín,anh tham khảo và thử nghiệm các “liều thuốc” sau đây:

Nhận diện tác hại của mê tín

Việt Nam hiện nay có khoảng 8.000 lễ hộilớn nhỏ. Lễ thường gắn với niềm tin và tín ngưỡng. Hội là hội hè vui chơi, biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật. Có những lễ hội mang tính vănhóa và giá trị đẹp, cần được duy trì và phát huy. Có những lễ hội chỉ là những hủ tục, mê tín dị đoan với nhiều tác hại. Các lễ hội văn hóa tích cực có khả năng chuyển tải thiêng liêng, đạo đức và hiền thiện. Mê tín núp bóng lễ hội văn hóa thường mang lại nhiều tổn thất và bất an chongười tin nó mà không đặt vấn đề.

Mê tín có từ ngàn xưa, từ lúc con người cảm thấy bất lực trước sức tàn phá của thiên tai mà không sao giải thíchđược. Văn hóa Phật giáo không có chỗ cho những hành vi mê tín, dị đoan và hiện tượng trục lợi “buôn Thần bán Thánh” để lừa bịp những người nhẹ dạ, cả tin. Tín ngưỡng thiếu lý trí sẽ nhuốm màu thần bí và trở thành mêtín. Tác hại của mê tín không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý và tháiđộ ứng xử, mà còn phương hại cho lối sống và kinh tế gia đình. Điều nàyhoàn toàn đúng với trường hợp của vợ anh, một cô giáo nhẹ dạ đáng tội nghiệp.

Dịđoan là những điều quái lạ, huyễn hoặc, chỉ tồn tại trong niềm tin thiếu lý trí của con người. Mê tín là niềm tin mù quáng, không phân biệtđúng sai, nhắm mắt làm càng, thể hiện sự mê muội và mất lý trí. Mê tín và dị đoan là cặp song sinh. Nơi nào có dị đoan, nơi đó có mê tín. Ai sống với mê tín, người đó chấp nhận các dị đoan. Di đoan là mê tín. Mê tín thường kéo theo dị đoan.

Đằng sau các dị đoan và mê tín là nỗi sợhãi về những điều bất hạnh bao gồm cái chết, bệnh tật, tổn thất, bất hạnh và nghịch cảnh. Nỗi sợ hãi là thực phẩm thầm lặng nuôi sống mê tín.Những kẻ truyền bá mê tín thường khai thác tâm lý sợ hãi của tín chủ đểlợi dụng, từ đó, tạo ra tình trạng tiền mất tật mang. Có một số người truyền bá mê tín không vì mục đích lợi nhuận hay lừa đảo, mà chỉ để làm cho mình được nổi tiếng (dĩ nhiên chỉ là hư danh).

Việc cho vợ anh uống “liều thuốc” kiến thức về nguồn gốc của mê tín, nguyên nhân sống còn của niềm tin sai lầm này, các hậu quả mà người dị đoan phải gánh chịu… sẽ góp phần giúp cho chị ấy “tỉnh ra” vấn đề để dừng lại các thái độ và hành động sai lầm trước khi quá muộn. Dĩ nhiên, để thành công, anh phải hết sức khéo léo, điềm tĩnh, kiên nhẫn, tránh gây gỗ với vợ vì như thế có thể làm hỏng mọithứ.

Thần linh không hại được con người

Phật giáo không chấp nhận thần linh trong tín ngưỡng dân gian có khả năng ban phước giáng họa. Ngay cả thượng đế, Phật giáo nguyên chất còn cho rằng chưa từng hiện hữu, do conngười mê tín nắn tạo ra, huống hồ, thần linh lấy đâu mà ra năng lực siêu nhiên để phạt kẻ này, hại kẻ nọ như thể thế giới này không có luật pháp vậy.

Thượng đế và thần linh nếu có cũng phải sống trong quy luật nhân quả, làm xấu sẽ bị khổ đau như bóng không rời hình, âm vang không tách rời khỏi tiếng. Các thần không phải là cáng câncủa luật pháp, do đó, nếu các thần linh ức hiếp con người, các thần sẽ bị nhân quả nghiêm trị. Rất may là trên thực tế con người mượn hình ảnh thần linh để hù dọa lẫn nhau, chứ chưa có thần linh “bề trên” nào đã hạicon người như thế.

Các tôn giáo nhất thần và đa thần thườngvẽ vời ra năng lực “hủy diệt” cho “bề trên” (thượng đế và các thần), đểdọa nạt người không mê tín vào thần, để rồi từ nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, chăn dắt họ quay niềm tin vào lực lượng siêu nhiên vốn không có thật.

Trongxã hội tiến hóa của loài người, cha mẹ dù sinh ra con cái nhưng hủy hoại mạng sống của con cái là đã mang tội giết người, nên sẽ bị luật pháp trừng phạt. Làm cha mẹ sinh ra con, có ai bất nhẫn, bất nhân đến độgiết đi mạng sống của con ruột mình?! Tội giết con được xem là tội bất nhân, luật pháp không thể dung tha. Nếu các đấng “bề trên” viện cớ sinh ra con người nên có quyền hủy diệt con người thì thần linh đó thật ác đức, không đáng để con người tôn trọng và kính nễ. Nếu các đấng “bề trên” nhiễu nhương và phá hoại cuộc đời và hạnh phúc của con người thì con người cần dấy cuộc thánh chiến chống lại bề trên, để giải phóng nhânloại khỏi ách thống trị bạo ác của bề trên.

Trên thực tế, các đấng bề trên chưa từnghiện hữu. Việc kể công hay gán tội cho họ đều không thích hợp. Do đó, thay vì đi cúng lễ theo nghĩa “hối lộ” các đấng bề trên (vừa tốn tiền vừa sợ hãi) thì theo Phật giáo, ta hãy phân tích các nguyên nhân và điềukiện thuận nghịch để khắc phục những khó khăn và bất hạnh trong cuộc sống. Truy tìm nguyên nhân của các bất hạnh là giải quyết bất hạnh được phân nửa. Phân nửa còn lại là giải pháp đúng, con đường trị liệu đúng. Ai nỗ lực tự thân với sự dẫn dắt của trí tuệ như vừa nêu sẽ có khả năng giải quyết dứt điểm các bất hạnh và khổ đau đã, đang hoặc sẽ diễn ra.

Lấy huyễn độ huyễn

Việc khai mở kiến thức đúng về tác hại của mê tín để người mê tín từ bỏ các niềm tin sai lầm, không phải lúc nào cũng thành công, khi mà anh đã rơi vào tình thế “Bụt nhà không thiêng” đối với vợ. Dưới mắt vợ anh, anh chỉ là một kẻ phàm tục và dĩ nhiên sẽ không thể hiểu biết hết về thế giới siêu nhiên mà cô ta đang bịkẻ chủ trương mê tín dẫn dắt. Lối suy nghĩ tiêu cực này có thể có của vợ anh đôi lúc làm cho anh dễ cáu giận. Nhưng đừng vì thế buông xuôi mọiviệc, để cho mê tín dẫn dắt cuộc sống của gia đình anh.

Do đó, nếu giải pháp “đánh thức” không thành công, anh có thể áp dụng công thức “dĩ huyễn độ huyễn” được Phật giảng dạy trong Kinh. Tức tạm thời, anh cứ đóng vai diễn là người có niềm tin như vợ anh, để vợ anh nghĩ rằng chị và anh là người đồng hội, đồng thuyền. Sau đó, anh có thể phối hợp với một vị trụ trì có kinh nghiệm ở ngôi chùa cùng thành phố anh chị đang sống, nói rõ về các mê tín mà vợ anh đang dính vào, để nhờ trợ giúp tích cực. Sắp xếp một cuộc gặp gỡ giữa hai vợ chồng anh với nhà chùa trong một ngày thuận lợi cho cả hai bên.

Anhnên cung cấp vài thông tin về cá tính của vợ, cảnh huống của gia đình để nhà chùa nắm vững trước khi gặp nhau. Trong cuộc trò chuyện, vị trụ trì có thể nói như đinh đóng cột về cảnh huống gia đình và cá tính của vợ, làm chị sinh tâm bội phục. Phụ nữ thường có tâm lý nể phục những ai nói đúng về họ và gia đình họ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến niềm tin quàng xiêng, mù quáng. Biến điều này thành một lợi thế để anh phối hợp với nhà chùa làm công việc “tương kế tựu kế.” Đến lúc vợanh có niềm tin mạnh về năng lực đặc biệt của nhà chùa, việc nhà chùa góp ý những điều chị ấy đang quan tâm mới có kết quả, ít nhất là tác dụng tâm lý dẫn đến niềm tin vào lời khuyên.

Theo Phật giáo, việc “cúng lễ ở khắp nơi, tiêu tốn hàng chục triệu đồng” không phải là giải pháp cho các vấn nạn gia đình và xã hội mà con người có thể gặp trong cuộc sống. Cũng cùng một vấn đề, thay vì các thầy pháp, thầy phong thủy, thầy địa lý, thầy bùa ngải, thầy đồng bóng “dọa” không cúng lễ thì “gia đình sẽ tan nát, sẽ có người chết sớm” thì vị trụ trì có thể giải thích “đức năng thắng số” tức không có số phận thật để mặc cảm, sợ hãi và lo lắng, sau đó tư vấn các giải pháp thích hợp theo tinh thần sống với nhân quả, giảiquyết vấn đề bằng trí tuệ. Nhà chùa có thể tổ chức một khóa lễ cầu an vừa không tốn tiền vừa có khả năng xoa dịu và trấn an các nỗi đau và bấthạnh của gia đình. Nỗi sợ hãi “không chịu đi lễ nên bị bề trên phạt choốm” sẽ được thay thế bằng niềm vui được Phật pháp gia hộ, mang hạnh phúc và an vui về cho gia đình.

Cần thấy rõ, sự thành công của phương pháp này lệ thuộc vào khả năng phối hợp giữa anh với nhà chùa. Phương pháp hợp tác này có khả năng giúp vợ anh thoát khỏi cái “khổ do mê tín dị đoan, cuồng tín đến mù quáng” gây ra.

Chúc anh sớm thành công trong việc giúp vợ “tỉnh ra” sự mê tín của mình, hầu xây dựng lại niềm tin chân chính vàhạnh phúc gia đình như trước đây.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4949)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5092)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4444)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4119)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4702)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4166)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3610)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6888)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6967)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5060)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]