Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật dạy vua Ưu-điền dùng chánh pháp trị nước - Thích Tâm Nhãn

08/11/201114:19(Xem: 5508)
Phật dạy vua Ưu-điền dùng chánh pháp trị nước - Thích Tâm Nhãn
Phật dạy vua Ưu-điền dùng chánh pháp trị nước
Thích Tâm Nhãn

27g1acDẪN NHẬP

Cách ngôn Trung Hoa có câu: ‘Tĩnh tọa thường tư kỷ quá, nhàn đàm mạc thuyết tha phi’, khi ngồi một mình vắng vẻ, hãy thường xuyên suy nghĩ về lỗi lầm của chính mình. Trong lúc đàm luận nhàn rỗi, chớ nên kể lể chuyện xấu của người. Đây là châm ngôn tu thân của người đời. Dù chỉ là người dân thường, nếu ưu tư về lỗi lầm của mình thì có thể cách mạng được cả số phận; còn như một quân vương, nếu thấy được lỗi lầm của mình thì không những thay đổi cả mệnh đời, mà còn thay đổi cả vận mệnh quốc gia, đánh thức toàn trái tim dân tộc, và mãi mãi là tấm gương lịch sử cho những đế vương sau này học theo.

Vua Ưu-điền suy gẫm về lỗi lầm của mình được kể trong kinh Phật dạy vua Ưu-điền dùng chánh pháp trị nước (Phật vị Ưu-điền vương thuyết vương pháp chính luận kinh [佛爲優填王說王法正論經 – Nītiśastra-sūtra – Spoken by Buddha for the sake of King Udayana], tên khác Chính luận kinh, Vương pháp chính luận kinh), 1 quyển, do ngài Bất Không (705-774, Amoghavajra, Bất Không Kim Cang, người Tích Lan) dịch thời Đường, tạng Đại chánh 14, số 524, trang 797.

TOÁT YẾU NỘI DUNG KINH

Một hôm vua Ưu-điền ngồi trong tịnh thất nơi thanh vắng suy nghĩ: Làm thế nào để biết lỗi lầm thật sự, công đức chân thật của các đế vương? Nếu biết ta sẽ bỏ các lỗi lầm mà tu tạo các công đức. Có Sa-môn tịnh hạnh nào hiểu rõ để giảng cho ta. Sau đó vua lại nghĩ: Chỉ có Thế Tôn của ta là bậc đại sư trong ba cõi, đầy đủ nhất thiết trí, chắc chắn biết lỗi lầm, công đức chân thật của các vua. Ta phải đến gặp Thế Tôn thưa hỏi việc này.

Nghĩ xong nhà vua liền đến chỗ Phật thưa hỏi:

Bạch Thế Tôn! Thế nào là lỗi lầm của các vua? Thế nào là công đức chân thật của các vua?

Đức Phật dạy, một vị đế vương có mười điều lầm lỗi, mười thứ công đức, năm loại hành vi xấu làm đế vương bị suy tổn, và có năm điều khiến cho đế vương được thần dân yêu thích, quí kính.

Mười điều lầm lỗi là:

1. Dòng họ không cao quí.
2. Không có quyền lực.
3. Bản tánh hung ác.
4. Chính sách hà khắc, hung dữ.
5. Ít ban bố ân huệ.
6. Nghe theo lời tà vạy, nịnh hót.
7. Làm việc không thuận theo qui chế của tiên vương.
8. Không hướng đến thiện pháp.
9. Không xem xét việc phải trái hơn thua.
10. Chỉ ăn chơi buông lung.

Nếu quốc vương nào phạm 10 lỗi lầm này thì dù kho tàng to lớn, binh hùng tướng mạnh, cũng không bao lâu đất nước sẽ gặp tai họa loạn lạc. Đại vương nên biết, lỗi đầu thuộc dòng họ vua, còn 9 lỗi sau thuộc tự tánh của vua.

Mười công đức là:

1. Dòng họ cao quí.
2. Được quyền lực lớn.
3. Tánh tình không hung dữ.
4. Chính sách khoan hồng
5. Ân huệ nồng hậu.
6. Nghe theo lời nói chánh trực.
7. Làm việc, suy nghĩ thuận theo lời dạy của tiên vương.
8. Hướng đến thiện pháp.
9. Biết rõ việc phải trái hơn thua.
10. Không buông lung, phóng đãng.

Nếu quốc vương nào có đủ 10 công đức như vậy thì dù quốc gia không có kho tàng, hay thiếu binh hùng tướng mạnh, nhưng không bao lâu đất nước cũng tự nhiên giàu mạnh và được mọi người qui ngưỡng.

Còn thế nào là năm hành vi xấu làm vua suy tổn?

1. Không khéo quan sát, theo dõi quần thần.
2. Tuy khéo quan sát nhưng không có ân huệ, tuy có ân huệ nhưng không kịp thời.
3. Chỉ lo vui chơi, không nghĩ đến việc nước.
4. Chỉ lo vui chơi buông lung, không giữ gìn kho tàng.
5. Chỉ lo vui chơi không tu hành pháp thiện.

Nếu quốc vương nào phạm vào 5 điều trên thì mất phước báo trong hiện tại và cả đời sau….

Lại có năm điều khiến nhà vua được thần dân yêu thích, quí kính:

1. Ân nghĩa nuôi dưỡng dân chúng.
2. Anh dũng đầy đủ.
3. Khéo dùng phương tiện quyền xảo.
4. Lãnh thọ vật dụng đúng đắn.
5. Siêng tu thiện pháp.

Thế nào là ân nghĩa nuôi dưỡng dân chúng? Nghĩa là nhà vua bản tánh biết đủ, không tham. Nếu có kho tàng tùy theo khả năng cung cấp, bố thí cho người nghèo cô độc… dùng lời êm dịu khuyến hóa dân chúng…

Thế nào là anh dũng đầy đủ? Nghĩa là nhà vua có tinh thần không trụy lạc, võ lực mưu lược đầy đủ. Những người chưa hàng phục thì làm cho hàng phục, những người đã hàng phục thì bảo hộ họ.

Thế nào là khéo dùng phương tiện quyền xảo? Nghĩa là nhà vua khéo hiểu biết, phân biệt rõ ràng các việc. Dùng phương tiện nhiếp phục tất cả kẻ oán địch.

Thế nào là lãnh thọ vật dụng đúng đắn? Nghĩa là nhà vua biết tính toán kho tàng tăng giảm, không xa xỉ, keo kiệt, sử dụng ở mức bình thường, tùy thời cung cấp cho quần thần, thân tộc… khi bệnh nên ăn những món nên ăn, ăn theo lời thầy thuốc… Nếu có món ăn ngon nên chia cho mọi người.

Thế nào là siêng tu thiện pháp? Nghĩa là nhà vua đầy đủ tín, giới, văn, xả, tuệ thanh tịnh.

Về tín thanh tịnh, là rõ biết tin có đời sau và tin quả báo nhân thiên, nghiệp thiện, bất thiện đời sau.

Thọ trì tịnh giới, là mỗi năm ba tháng, mỗi tháng sáu ngày trai giới, xa lìa sát sanh, trộm cắp, v.v… đó là giới thanh tịnh.

Văn thanh tịnh, là hiểu biết nghiệp đời này và quả đời sau, tu tạo phước đức, tấn tu đạo nghiệp, ưa các pháp môn vi diệu…

Xả thanh tịnh, là tâm xa lìa xan tham, tự tay bố thí, tu phước viên mãn…

Tuệ thanh tịnh, là hiểu biết như thật có tội, không tội, thân cận các Sa-môn đa văn, giới hạnh, xa lìa điều ác, tà giáo. Và biết rõ quả báo viên mãn, sĩ dụng viên mãn, công đức viên mãn.

Nhà vua kế tục đế nghiệp, sanh vào thị tộc thông minh, trí tuệ, kho tàng, tài bảo dùng hoài không hết, đó gọi là quả báo viên mãn.

Nếu quốc vương khéo dùng phương tiện quyền xảo, thường thành tựu các việc, anh dũng trong đánh trận, thông đạt các môn kỹ nghệ, đó gọi là sĩ dụng viên mãn.

Nếu quốc vương thọ trì chánh pháp, cùng các nội cung, vương tử, đại thần thực hành bố thí, làm các việc thiện, trì trai, thọ giới… Đó gọi là công đức viên mãn.

Nếu ai thực hành đầy đủ như vậy gọi là đầy đủ tuệ thanh tịnh.

Sau khi giảng dạy rõ ràng, đức Phật bảo nhà vua: vào lúc sáng sớm mỗi ngày nên đọc, hoặc tụng giáo pháp tối thượng này, nương theo đó tu hành, thì gọi là Thánh vương, Pháp vương; ngoài ra còn được chư Phật, Bồ-tát, trời, rồng… thường theo hộ trì, và có thể làm cảm động đến thế gian, mưa thuận gió hòa, chiến tranh chấm dứt, được các nước đến triều cống, phước lộc vô biên, nước nhà an lạc, thọ mạng lâu dài. Tất cả đều được lợi ích, hiện đời được an lạc.

Vua Ưu-điền nghe Phật dạy xong quá đỗi vui mừng, nguyện thọ trì phụng hành theo.

LỜI KẾT

Kinh Phật vị Ưu-điền vương thuyết vương pháp chính luận còn có một bản dịch khác là “Vương pháp chính lý luận”, 1 quyển, do Bồ-tát Di-lặc soạn, ngài Huyền Trang dịch thời Đường, tạng Đại chánh 31, số 1615, trang 855. Bản “Vương pháp chính lý luận” của Bồ-tát Di-lặc hơi khác bản của ngài Bất Không, là đức Thế Tôn nói 9 lỗi lầm, 9 công đức, 5 điều suy tổn, 5 phương tiện, 5 pháp đáng mến và 5 pháp có năng lực dẫn đến pháp đáng mến của bậc đế vương. Đồng thời, đức Phật giảng nói 3 loại kẻ sĩ khác nhau, 3 loại Bổ-đặc-già-la (người), 3 viên mãn, 4 ngữ, 3 thứ ái dục, 3 thứ tham nhiễm… Nhưng cả hai bản dịch này đều là biệt dịch từ quyển 61, phần 4 “Nhiếp trạch phần có tầm, có tứ tam-ma-địa”, trong Du-già sư địa luận 100 quyển, Bồ-tát Di-lặc giảng, ngài Huyền Trang dịch thời Đường, tạng Đại chánh 30, số 1580, trang 279.

Theo sử liệu ghi, vua Ưu-điền (Udayana, dịch Nhật tử vương, Xuất ái vương) trị vì vương quốc Câu-thiểm-di (Kauśāmbī), vì hoàng hậu là người kính tín Phật pháp nên ông trở thành vị ngoại hộ đắc lực của Phật. Cho nên khi dẫn nhập vào kinh, chúng ta thấy vua Ưu-điền là một Phật tử thuần thành, lúc nhàn nhã việc triều chính thường tìm đến Thế Tôn hỏi đạo, hay nói cách khác đó là hành vi của một vị minh quân, không kiêu ngạo ta đang ngồi trên ngôi “Cửu ngũ” luôn vẹn toàn không chút lỗi lầm. Song, thực chất dưới mắt một số nhà nghiên cứu Phật học như Kimura Taiken (Mộc Thôn Thái Hiền, 1881-1930) cho rằng, các vị đế vương thời đức Phật, ngoài chuyện đến hỏi đạo còn liên quan đến vấn đề chính trị:

Ấn Độ thời đại đức Phật (thế kỷ thứ V trước Tây lịch) chia ra mười mấy nước, trong đó những nước lớn mạnh thường muốn thôn tính những nước nhỏ yếu, cho nên tình trạng giữa các nước rất rối ren. (…) Nếu nói về tình hình nội chính thì trong hơn mười tiểu quốc đó, có nước là Vương quốc, có nước là Cộng hòa, chính thể tuy khác nhau, nhưng người nắm quyền chính trị thì đại khái là những người thuộc giai cấp Sát-đế-lợi (Sĩ tộc), mà những người này vì muốn nắm lấy cơ hội biến động để quật khởi nên một mặt muốn được sự tin tưởng của giai cấp Bà-la-môn (giai cấp Tăng lữ, trí thức), mặt khác lại muốn mua chuộc lòng tin cậy của giai cấp Phệ-xá (giai cấp thực nghiệp) và giai cấp Thủ-đà (nông nô), đó là một việc không phải dễ dàng, nếu vô ý một chút có thể bị quần chúng oán thán, do đó uy quyền sẽ giảm. Vì công việc nội chính, ngoại giao phức tạp và khó khăn như thế nên các nhà làm chính trị thường mong đợi ở một nhà tôn giáo danh tiếng giúp ý kiến để vượt qua những khó khăn ấy. Đức Phật là một trong những vị đạo sư danh tiếng thời bấy giờ, cho nên người ta không lấy làm lạ khi thấy đức Phật cũng được hỏi ý kiến liên quan đến vấn đề chính trị. Và chính vì để giải đáp những vấn đề thực tế đó mà đức Phật đã phát biểu quan niệm chính trị của Ngài. (…) Do đó mà Phật giáo đã có Chính trị quan một cách ngoài ý định.

Như vậy rõ ràng là cả hai bản kinh “Phật vị Ưu-điền vương thuyết vương pháp chính luận” và “Vương pháp chính lý luận” đều không ngoài bản ý nêu trên. Lại thêm một học giả nhận định đồng tư tưởng: “Tuyệt đỉnh lý tưởng của xã hội Phật giáo là thế giới Tịnh độ, một thế giới bình đẳng, hòa bình an vui không phải lo âu vì cuộc sống, ‘tưởng y y chí, tưởng thực thực lai’ (nghĩ y phục có y phục đến, nghĩ thức ăn có thức ăn lại). Thế nhưng hiện tại cộng đồng xã hội Phật giáo chỉ thực hiện một phần. Cho nên đương nhiên dù mang một lý tưởng siêu xuất thế gian, Phật giáo cũng không thoát khỏi sự chi phối hoàn cảnh xã hội, đặc biệt là về chính trị và luật pháp. Tất nhiên dưới chế độ xã hộ đương thời, muốn đưa Phật giáo vào trong dân chúng không thể không thông qua những hoạt động chính trị của quốc gia”.

Kết lại, lịch sử đã đi qua, nhiều vương triều sụp đổ suy tàn, một vài triều đại phú cường thịnh trị, còn sau này và mãi mãi cho đến về sau, không biết có bao nhiêu vị đế vương hiểu được những gì đức Thích Tôn dạy cho vua Ưu-điền chính là “bức thông điệp” nhắn nhủ lại cho các bậc đế vương cai trị, cho các nhà lãnh đạo tiếp nối kế tục: Trong vương pháp phải có chánh pháp, trong chính trị phải có chính đạo.■

Chú Thích

1. Du-già Bồ-tát giới- Tuệ Sỹ, Nxb Phương Đông.
2. Luận Thành duy thức 8, T31n1585_p42b04, giải thích: “Sĩ dụng (士用), nghĩa là những người làm (sĩ) mượn các công cụ để tạo ra sự nghiệp”.
3. Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Tác giả Kimura Taiken – HT. Thích Quảng Độ dịch.
4. Giáo dục học Phật giáo– Nguyên Hồng, Nxb Tôn giáo.

(Nguồn: Tập San Pháp Luân 81)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/11/2013(Xem: 11104)
Gần đây, sau ngày Giáo Hội ra mắt cơ quan TTTT Trung ương, hàng loạt vấn đề nhạy cảm phơi bày mang tính méo mó của một số báo chí nói về những tu sĩ Phật giáo.
27/11/2013(Xem: 42687)
"Đức Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Của Tôi" là một tập tự truyện của Mẫu Thân Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một tập sách hấp dẫn do Cụ bà Diki Tsering, Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại những chi tiết sinh động trong cuộc đời của mình, từ một phụ nữ nông thôn bình thường, bỗng chốc đã trở thành một người đàn bà có địa vị cao nhất trong xã hội, làm Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người lãnh đạo quốc gia Tây Tạng.
22/11/2013(Xem: 7180)
Lâu lắm rồi, tôi không dám đọc báo chí, không dám nghe radio, không dám bật TV. Ừ, thì cứ coi như mình đứng ngòai thời cuộc, tách xa thực tế. Nhưng biết làm sao khi thỉnh thoảng những tin tức vẫn từ một ngõ ngách nào đó của truyền thông đưa đến những tin đau lòng. Những tin như cha mẹ bán con, người người bán nhau dưới hình thức này hay hình thức khác. Rồi học trò đâm chém nhau, nữ sinh băng hoại, trẻ em tử vong vì thuốc dởm, v.v… Lại đến những hình ảnh thảm thương của những vụ thảm sát trong học đường, thảm sát trong khu vực buôn bán. Kinh khủng hơn là những cơn bão lũ, những trận cuồng phong, động đất. Đằng sau những tin đó, biết bao nhiêu cuộc đời cuốn xoay trong gió lốc!
21/11/2013(Xem: 7810)
Bão Haiyan đã đi qua, nỗi đau của người dân Philippines và cộng đồng thế giới vẫn còn đó. Bão Haiyan đã làm cho 3.600 người Philippines thiệt mạng và hàng trăm ngàn người phải sống trong cảnh đói khát, không nhà. Một mất mát quá lớn.
21/11/2013(Xem: 5339)
Tháng 9 năm 2013, Glen James, một người vô gia cư (homeless), sống ở một nơi cư trú dành cho người không nhà (shelter) ở Boston. Ông bất ngờ kiếm thấy một cái ba lô (backpack) ai bỏ quên trong một thương xá. Ông vẫy tay chặn một viên cảnh sát lại và trao cái ba lô lượm được cho viên cảnh sát. Cái ba lô trong đó có chứa $2,400 tiền Mỹ và gần 40,000 chi phiếu du lịch (traveler’s check) cùng với sổ thông hành và một số giấy tờ cá nhân khác.
12/11/2013(Xem: 18205)
Bataan là thành phố chính của đảo Luzon, Philippines, dân số khoảng trên 600 ngàn người. Lịch sử của thành phố chỉ hai biến cố được thế giới biết đến nhiều, một lần trong đệ nhị thế chiến và lần thứ hai trong làn sóng người tỵ nạn Cộng Sản vùng Đông Nam Á. Trong chiến tranh, trận phòng thủ Bataan là trận đánh cuối cùng trước khi liên quân Mỹ-Phi rút lui và trong làn sóng tỵ nạn, Bataan là nơi dừng chân của 300 ngàn người tỵ nạn, nhiều nhất đến từ Việt Nam. Ngoài ra, đảo Palawan với Làng Việt Nam nhiều huyền thoại cũng là nơi dừng chân của nhiều chục ngàn người Việt.
10/11/2013(Xem: 36433)
9780975783085, Cách phi trường quốc tế Melbourne 15 phút lái xe, theo Western Ring Road và exit vào Hume High Way, sau đó quẹo trái từ đường Sydney road, đi vào con đường Lynch thân thương, khách hành hương sẽ nhìn thấy một quần thể kiến trúc nổi bật trong vùng cư dân này, đó là Bảo Tháp Tứ Ân và cổ lầu của chánh điện Tu Viện Quảng Đức, tọa lạc tại số 105 Lynch Road, vùng Fawkner
09/11/2013(Xem: 11554)
Chọn cách ẩn tu trong một hang động hẻo lánh trên rặng núi Ky Mã Lạp Sơn, cách biệt với thế giới bên ngoài bởi những rặng núi tuyết phủ, ni sư Tenzin Palmo đã tu luyện tại đây trong suốt 12 năm. Ở đó ni sư đã phải chiến đấu với cái lạnh cắt da cắt thịt, với những thú hoang dã, với sự khan hiếm thực phẩm và tuyết lở.
08/11/2013(Xem: 6732)
Ngày 20.09.2013. Ngài Đạt Lai Lạt Ma đến thăm Chùa Viên Giác, chuyến ghé thăm chớp nhoáng vài giờ trên đường Ngài ra phi trường để bay về trú xứ. Tình cờ vào trang nhà Quảng Đức đọc được bài phóng sự sống động „Nụ cười bất diệt“ của chị Hoa Lan viết. Bài nào của chị ấy mà chả sôi nổi đầy hình ảnh, đọc như xem phim. Chị ấy viết về những tâm đắc qua buổi pháp thoại và cả những lo âu cho những người bạn đạo của chị khi không có vé vào, đến khi có được vé rồi thì phải chụp hình ngay tấm vé có tên mình, làm như sợ để lâu chữ sẽ bay đi hết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567