Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Phật Tử Ngày Nay Trong Thế Giới Tây Phương

28/01/201203:33(Xem: 6496)
Người Phật Tử Ngày Nay Trong Thế Giới Tây Phương

NGƯỜI PHẬT TỬ NGÀY NAY
trong thế giới Tây Phương
Fabrice Midal
Hoang Phong chuyển ngữ

PhatGiaoNhapMon
Phật Giáo nhập môn
Thựctập thiền định - Cải thiện chính mình - Mở rộng trái tim
tácgiả Fabrice Midal

Vài lời giới thiệu của người dịch

Dưới đây là phần chuyểnngữ toàn bộ chương I (tr.13-20) của một quyển sách nhỏ về Phật Giáo, mang tựa đề"Phật Giáo nhập môn" (ABC du Bouddhisme, nhà xuất bảnGrancher, 2008). Tuy bàn về những vấn đề rất căn bản thế nhưng tập sách lại đượcviết bởi một triết gia Phật Giáo sâu sắc nổi tiếng hiện nay là Fabrice Midal.Trong chương đầu tiên này, tác giả tìm cách giải thích Phật Giáo là gì và nêu lênmột vài khía cạnh về hiện tình phát triển của Phật Giáo tại Pháp và Âu Châu. Toànbộ quyển sách được tác giả trình bày với một văn phong rất đơn giản và nêu lên cácchủ đề cũng như các nhận xét thật bao quát, thế nhưng chúng ta vẫn nhìn thấy đượcchiều sâu và sự chính xác tàng ẩn phía sau từng dòng chữ thật đơn sơ của ông.

Sinh năm 1967 trong mộtgia đình Do Thái Giáo, năm 20 tuổi Fabrice Midal may mắn gặp được một nhà sưTây Tạng khác thường là Chögyam Trungpa (1939-1987). Ông cạo đầu và tu theo PhậtGiáo Tây Tạng từ khi còn là sinh viên, sau đó thì đỗ tiến sĩ triết học tại đạihọc Sorbonne (Paris). Tuy thấm nhuần các tư tưởng phóng khoáng, cấp tiến và"phi-giáo-điều" của vị thầy Chögyam Trungpa, ông cũng đã chịu ảnh hưởngrất nhiều từ các vị thầy Tây Tạng khác mà ông đã theo học, và đặc biệt nhất làđược nhà thần kinh học nổi tiếng Francisco Varéla (1946-2001) một trong các đệ tửthân cận của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, truyền thụ thêm cho ông về phép thiền định.

Fabrice_Midal

FabriceMidal

Lýdo nào khiến người Tây Phương lại theo Phật Giáo đông đến thế?

Quả thật là đã không hềcó một dấu hiệu nào báo trước sự thành công kỳ lạ của Phật Giáo tại Tây Phương trướckhi Phật Giáo tiếp xúc với miền đất này vào thế kỷ XX. Alfred Foucher (1865-1952, là mộthọc giả uyên bác của Pháp), tác giả một quyển sách thuật lại cuộc đờicủa Đức Phật hiện vẫn còn giá trị, đã viết vào năm 1949 một câu như sau:"Ngoại trừ một số người đặc biệt hiếu kỳ thích quan tâm đến những thứ ngoạilai ra thì Phật Giáo rồi cũng sẽ chỉ thu nạp được một số tín đồ thật ít ỏi trênđất nước của chúng ta ". Theo ông thì tín ngưỡng đó không sao hòa hợp đượcvới tâm tính của người Tây Phương.

Ngày nay nhiều khái niệmchủ yếu của Phật Giáo được biết đến và có thể nói rằng đã có rất nhiều người TâyPhương tán đồng các quan điểm ấy: dù đấy là lòng từ bi, sự vững chắc của hiệntượng vô thường (chữ này là một đặc thù của Phật Giáo), các khái niệm về vô-ngã,về nghiệp hay là hiện tượng tương liên (lý duyên khởi). Người ta có thể quả quyết rằng rồiđây Tây Phương sẽ trở thành mảnh đất của Phật Giáo, dù không nhất thiết phải làdưới một hình thức tu tập thật chuyên cần đi nữa.

Sự lợi ích do thiền địnhmang lại thì mọi người đều biết và đã có hàng triệu người đang luyện tập hiệnnay.

chuakhanhanh-parisKhoảng hơn bảy-trăm-ngànngười Pháp tự nhận mình là Phật tử (nước Pháp có 65 triệu dân), và do đó Phật Giáo đãtrở thành tôn giáo đứng hàng thứ ba tại quốc gia này. Con số ấy thật ra còn chekhuất một sự thật quan trọng hơn thế nhiều: đấy là có năm triệu người Pháp chorằng Phật Giáo là một tín ngưỡng mà họ cảm thấy gần gũi với mình hơn cả. PhậtGiáo du nhập vào nước Pháp vững chắc hơn so với các nơi khác: hàng nhiều trămtrung tâm thiền định đã được thiết lập trên đất Pháp. Ngôi chùa Tây Tạng lớn nhấtÂu Châu tọa lạc trong vùng Bourgogne (miền đông nước Pháp), trung tâm thiền Zen quantrọng nhất ở Âu Châu được thiết lập tại Touraine (miền tây nước Pháp), và ngôi chùamới của Phật Giáo Việt Nam thì ở Evry (ngoại ô Paris).(hình bên)

Có rất nhiều nguyên nhânđưa đến sự phát triển của Phật Giáo trên đây. Thế nhưng căn cứ vào một vài khíacạnh của tín ngưỡng Phật Giáo đã khiến cho con tim của người Tây Phương phảirung động thì có lẽ chỉ cần nhận ra hai nguyên nhân chính yếu nhất là đủ: trướchết là một nền móng đạo đức xây dựng trên sự khoan dung, lòng nhân ái, sự ý thứcđược trách nhiệm của mình đối với người khác trong cộng đồng xã hội; và kế đó làsự tập luyện về thiền định như là một nghệ thuật sống, giúp làm hiển lộ được bảnchất đích thật nơi con người của mỗi chúng ta trong bất cứ một bối cảnh nàotrong cuộc sống.

Các nguồn tài nguyênthiên nhiên bị tàn phá triệt để khiến cho tương lai của hành tinh này đang bị hămdọa một cách trầm trọng, và nếu nhìn trên một bình diện rộng hơn nữa thì có thểnói rằng bất cứ thứ gì trên hành tinh này cũng đều đang bị khai thác một cách tậncùng - trong đó kể cả con người. Trong bối cảnh đó đối với nhiều người thì PhậtGiáo đã xuất hiện như là một giải pháp cứu tinh mạnh mẽ, mạch lạc và thật cầnthiết.

Đốivới người Tây Phương muốn trở thành một Phật tử thì phải như thế nào?

Đấy là ước vọng được bướctheo bước chân của Đức Phật, thế nhưng đây không phải là cách thâu thập chomình một thứ gì ngoại lai, mà thật ra là để noi theo tấm gương của một Con Ngườicách nay hơn hai-ngàn-năm-trăm năm đã khám phá ra một con đường cho chúng ta bướctheo, hầu giúp cho mình trở thành những con người xứng đáng hơn.

Nếu bắt buộc phải địnhnghĩa Phật Giáo bằng một câu duy nhất thì tôi sẽ nói rằng đấy là một phươngpháp giúp chúng ta sống thật trọn vẹn từng giây phút một trong cuộc đời này.

Tất cả chúng ta đều trảiqua những giây phút khổ nhọc và đau buồn, và cả mọi thứ khó khăn khác mang ítnhiều gay gắt. Thế nhưng Phật Giáo cho thấy là chúng ta có thể triệt tiêu được nhữngthứ ấy một cách hữu hiệu, và còn nhắn bảo với chúng ta không nên đổ lỗi cho hoàncảnh bên ngoài hay cho người khác, vì đấy chỉ là cách ngăn chận không giúp chúngta trưởng thành một cách đúng đắn được.

Phật Giáo khuyên chúngta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trongcuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình. Nếunhìn theo chiều hướng đó thì Phật Giáo không phải là một tôn giáo. Phật Giáo khôngbắt nguồn từ một thứ đức tin nào cả, và cũng chẳng cần phải chấp nhận một thứ hiểubiết nào mang tính cách giáo điều. Kể cảmột Đấng Tối Cao cũng không có trong tín ngưỡng ấy.

Giáo huấn của Đức Phậtlà những lời chỉ dạy giúp chúng ta tiếp cận trực tiếp với những kinh nghiệm sốngthật mà chúng ta cảm nhận được. Dầu sao thì chữ kinh nghiệm (experience) không hàmchứa đầy đủ được ý nghĩa cần thiết để diễn đạt được những gì nói đến trên đây, bởivì ngày nay chữ kinh nghiệm đã quen được sử dụng trong khoa học và mang ý nghĩanhư là một sự thử nghiệm, không còn là một sự lắng nghe với tất cả sự cảnh giácnữa.

Bước theo vết chân củaĐức Phật trước hết có nghĩa là khám phá ra rằng thực tại không hề hiển hiện rađúng thật của nó, thế nhưng chúng ta thì lại không sẵn sàng để chấp nhận điều ấy.Vì thế phải cần đến một sự tập luyện cần thiết nào đó để giúp chúng ta tiếp cậnthật gần, đúng thật với những gì đang hiển hiện ra. Thí dụ như khi viếng thăm mộtthành phố nào đó mà trước đây ta chưa hề biết, thì trong trường hợp ấy ta cũng cầnphải có một thời gian để cảm nhận được các đặc điểm của nơi ấy, và khung cảnhsinh hoạt của nơi ấy. Thế nhưng vẫn có thể là ta không thể nào quả quyết là mình đã cảmnhận được một cách đích thậttất cả những gì trong bối cảnh cá biệt ấy hay không, do đó ta cần phải có thêm thìgiờ để kiểm chứng lại. Nếu nhìn theo khía cạnh ấy thì sẽ hiểu rằng Phật Giáokhuyên chúng ta phải tập luyện thiền định. Đức Phật ngồi xuống để thiền định vàđã tiếp cận trực tiếp và thật sát với tất cả mọi sự vật đúng với những gì chúnghiển hiện ra, đồng thời thì Ngài cũng đã nhìn thẳng vào những kinh nghiệm cảmnhận của chính Ngài với một sự sắc bén thật cao độ. Trở thành một người Phật tửchỉ đơn giản có thế, tức có nghĩa là biết hành xử như thế.

Tuy nhiên không phải dễđể thực hiện được điều ấy. Nếu nhiều người cùng tập luyện chung với nhau thì cóthể sẽ dễ dàng hơn, nhất là biết tuân theo một số quy tắc được thiết đặt rõ rệtvà biết cố gắng giữ sự thành tín mang tính cách "tôn giáo" trong lòngmình, phải tự tin rằng mình là một người tốt và mình có lý - không nên đổ lỗi chongười khác về các khó khăn của chính mình. Con người luôn bị thúc đẩy thật mạnhbởi một niềm mong muốn tạo lập được một cơ sở nào đó và dồn tất cả trí thôngminh của mình vào đấy, và sau đó thì hy sinh tất cả cho lý tưởng ấy - thí dụ nhưthành lập một xí nghiệp, một hội đoàn, một cơ sở hành chánh, hay theo một Giáo Pháinào đó mà vì hoàn cảnh đưa đẩy đã trói buộc mình vào với nó. Tất cả những thứ ấythật vô cùng khủng khiếp.

Đức Phật khuyên chúngta phải biết tận hưởng, biết cảm nhận và biết sống trong từng giây phút một quasự hiện hữu của chính mình, thế nhưng không phải vì thế mà phải loại bỏ trí thôngminh của chính mình, và bắt buộc mình phải giao sự tự do của chính mình vào trongtay của bất cứ ai khác.

Cácđiều ấy có khác với những gì đang xảy ra ở các nước Tây Phương hay không?

Đúng là có, bởi vì tại ÁChâu thông thường thiền định không được xem là tâm điểm của Phật Giáo. Thiền địnhchỉ được thực thi bởi một số người đặc biệt quan tâm đến nó mà thôi. Phật Giáo tạinhững nơi này đã hòa nhập một cách tự nhiên với cuộc sống thường nhật. Tại TâyPhương, chúng ta cũng thấy một hiện tượng tương tự như thế đối với Thiên ChúaGiáo, và cũng nên hiểu rằng nhiều người xem tất cả những thứ ấy chỉ là một khungtrời thấm đượm văn hóa và các tập quán lâu đời mà thôi, không phải là một conđường tâm linh đích thật.

Phật giáo tại Tây Phươngtrước hết phải được xem là một sự truyền thụ tâm linh. Phật Giáo không phải làmột thứ tổng hợp gồm các tín điều, nghi lễ và các thái độ hành xử. Quả thật tấtcả là nhờ vào những vị "anh hùng" (đây là cách "mượn chữ" trong kinh sách Phật Giáo,nhất là kinh sách Phật Giáo Tây Tạng, chữ "anh hùng" dùng để chỉ những vị Bồ-tát xả thân cho lý tưởng của mình,và trong trường hợp này là những nhà sư Tây Tạng đã trốn thoát khỏi quê hương củahọ để sống lưu vong tại Âu Châu)đã mang Phật Giáo vào Tây Phươngcho chúng ta vào hậu bán thế kỷ XX, đấy là những người bị gạt ra khỏi các thểchế xã hội trên chính quê hương của họ. Họ ý thức được Phật Giáo đang trở thànhmột thứ hóa thạch (địa khai - fossil) trên quê hương họ, và khi đã đến được mảnhđất phương Tây thì họ cũng hiểu được rằng đấy cũng là một cơ hội để giúp cho PhậtGiáo tồn tại, và hơn nữa đấy cũng là một dịp để phát huy cho mọi người biết đếncác tiềm năng quý giá vô ngần của Phật Giáo. Những tiềm năng ấy không nhất thiếtđề cao một nền luân lý hay quảng bá một thứ giáo điều nào cả, mà đúng hơn đấy lànhững gì giúp chúng ta có thể nhìn thấy được một thể dạng hiện hữu nào đó (thể dạng thanhcao, an vui và giải thoát của một người tu tập).

Đối với các thế hệ trẻtại Á Châu, Phật Giáo bị xem như là một thứ gì lạc hậu, và cũng chẳng giúp íchgì được cho họ trong cuộc chạy đua kinh tế toàn cầu mà họ đang muốn nhập cuộc đểtham gia. Trong thế giới Tây Phương thì chúng ta may mắn hơn và đã ý thức được nhữnggiới hạn của chủ thuyết toàn cầu hóa đó cũng như của sự đua đòi tiện nghi vậtchất. Kinh nghiệm bản thân giúp chúng ta chứng nghiệm được tính cách đích thậttrong những lời giáo huấn của Đức Phật. Các lời giáo huấn ấy giúp chúng ta ý thứcđược là dù luôn cố tìm cách thỏa mãn sự ham muốn thế nhưng thực sự ra thì chúngta sẽ không bao giờ hết thèm khát cả. Chúng ta nào có biết tìm lấy cho mình sựan vui sẵn có mà luôn chỉ muốn tìm cách để đuổi theo những thứ khác hơn.

Dầu sau thì vấn đề vẫncòn hàm chứa một khía cạnh khác nữa. Trong thế giới Đông Phương, Phật Giáo đã ănsâu vào toàn bộ nền văn hóa và thấm nhuần trong từng sinh hoạt cụ thể của cuộcsống thường nhật. Con người hít thở bầu không khí Phật Giáo một cách thật tựnhiên - hành động của họ đều thấm đượm tinh thần Phật Giáo, từ cách ăn ở, cáchchào hỏi, cách ngắm nhìn muôn thú, núi đồi hay bất cứ một sự vật nào khác. Cácnền văn hóa Đông Phương không hề gây chiến chống lại bất cứ gì chi phối bởi mộtthứ trật tự duy lý mang tính cách tính toán - mà luôn giữ được ý nghĩa của sựthiêng liêng và nghi lễ, biết quan tâm đến thân xác và cả tình yêu thương. Và đấychính là những gì mà chúng ta không có. Muốn thực hiện được những điều ấy thì nhấtđịnh phải cần đến một sự cố gắng thật lớn lao. Nếu không thiết lập được một nềnmóng văn hóa Phật Giáo đích thực tại Tây Phương thì cũng sẽ khó lòng mà giúpcho Phật Giáo bắt rễ vào mảnh đất ấy.

Sau hết cũng cần phảinêu lên thêm một sự khác biệt nữa giữa Phật Giáo Á Châu và Phật Giáo TâyPhương: đấy là vai trò của những người xuất gia. Tại Đông Phương nhất là ở các nướcĐông Nam Á, vị thế của người tu hành được nâng lên rất cao. Người thế tục thuộcmọi thành phần đều phải cung cấp các tiện nghi vật chất cho các nhà sư trong cuộcsống thường nhật, và họ xem bổn phận ấy quan trọng hơn cả việc tu tập để hướngvào sự giác ngộ cho chính mình.

Ở Tây Phương thì lại khác,các người thế tục chỉ biết lo tu tập, tham gia vào các khóa ẩn cư hay các buổithực tập. Họ tìm cách bước thẳng vào lãnh vực cao thâm nhất và linh thiêng nhấtcủa Phật Giáo.

Nguyênnhân nào đã thúc đẩy ta trở thành người Phật Giáo?

Con người càng đa dạngbao nhiêu thì những nguyên nhân thúc đẩy cũng càng phức tạp bấy nhiêu.

Các nguyên nhân ấy cóthể là sự bất an gay gắt trong lòng, sự bất toại nguyện dai dẳng (vì khổ đau mà tu),chấp nhận tự gánh vác tất cả mọi khó khăn của mình (ý thức được nguyên nhân của khổ đau là do chínhmình gây ra), hay đấy là tinh thần thượng võ, lòng ước vọng giúp đỡtất cả chúng sinh (lý tưởng của người bồ-tát).

Hoặc cũng có thể là vìcảm nhận được ý nghĩa sâu xa trong những lời giảng huấn của Đức Phật, luôn vanglên trong lòng mình một cách thật thiết tha.

Dầu sao đi nữa thì đến mộtngày nào đó, người ta cũng sẽ cảm thấy mình muốn được uống những ngụm nước tuônra từ con suối ấy (tức Phật Giáo). Nếu muốn đến được con suối thì phải sẵn sàngtừ bỏ các thói quen chỉ biết hành xử nhắm vào quyền lợi cá nhân của mình. Quảthật chẳng có gì hẹp hòi hơn. Đấy chỉ là một cách chạy quẩn chạy quanh. Chính vìthế mà đến một lúc nào đó chúng ta cũng sẽ muốn được nhìn thấy các sự vật gầnhơn, đúng thật hơn với cách mà chúng hiển hiện ra.

Đấy chính là cách giúpchúng ta bước vào "con đường".

Các nguyên nhân khiếnchúng ta tìm đến với Phật Giáo tất nhiên cũng phải biến đổi. Những nguyên nhân thúcđẩy hẹp hòi rồi sẽ dần dần biến thành những nguyên nhân cao rộng hơn, sự ích kỷrồi một lúc nào đó cũng sẽ chuyển thành lòng quyết tâm hy sinh vì sự lợi ích củakẻ khác.

Dù được thúc đẩy bởi bấtcứ một động lực nào đi nữa thì luôn luôn ta cũng phải cần đến một con đường giúpcho ta theo đó mà đi.

Quả đấy là một thứ gìthật khó. Con người lúc nào cũng muốn che chở mình bằng một lớp vỏ bên ngoài thậtcứng nhắc mà chẳng bao giờ nghĩ đến là phải biến cải chính mình từ bên trong.

Thế nhưng đấy lại là mụcđích của Phật Giáo. Phải tu tập mà thôi, thế nhưng không phải tập để đơn giản trởthành một người Phật tử - chữ ấy mang một ý nghĩa thật đáng thương hại, bởi vìđấy chỉ là cách gán thêm cho mình một thứ cá tính nào đó để tự nâng cao giá trịcủa mình, hầu để tự trấn an lấy mình - mà đúng hơn tu tập có nghĩa là phải đi theo những bước chân của Đức Phật.

PhậtGiáo có nghi lễ nào tương tự như lễ rửa tội hay lễ Bar Mitsva (lễthụ giới của Do Thái Giáo lúc con gái vừa đúng 12 tuổi và con trai thì 13 tuổi)hay không?

Khi sinh ra chúng ta khôngđương nhiên là người Phật Giáo, tương tự như trường hợp của Do Thái Giáo, hay làtrường hợp của Thiên Chúa Giáo nhờ vào phép rửa tội. Chúng ta trở thành ngườiPhật Giáo bằng một sự tự nguyện mang tính cách cá nhân gọi là "quy y Tam Bảo"tức là nương tựa vào Đức Phật, Đạo Pháp và Tăng Đoàn: đấy là tấm gương để tanoi theo (tức ĐứcPhật), con đường giúp ta bước theo (Đạo Pháp), và tập thể những người đảmtrách việc truyền giáo (Tăng Đoàn).

Tạisao lại gọi là "quy y"?

Quyết tâm trở thành một người PhậtGiáo là một cách (giántiếp)chứng tỏ cho thấy là các mục tiêu trước đây không đáp ứng đượcnguyện vọng của mình. Các mục tiêu ấy không đủ vững chắc để cho ta có thể nươngtựa vào đấy. Tìm kiếm lạc thú, lợi lộc, uy quyền thì rốt cuộc cũng chỉ là cáchchạy theo những thứ phù du. Sự nương tựa đích thật mang lại lợi ích thực sự chínhlà cái không gian mở rộng - cái không gian mà Đức Phật đã trỏ cho chúng ta thấy.Chỉ có Đức Phật là vững bền và không có bất cứ một thứgì có thể làm cho Ngài bị ô uế được.

Đức Phật cũng như Đạo Pháp và Tăng Đoàn tất cảđều hiển lộ một cách thật xác thực, và được xem như ba viên ngọc quý giá khônggì có thể so sánh được. Những viên ngọc vô giá đó có thể giúp chúng ta chữalành những vết thương sâu kín nhất. Chúng ta có thể mạnh dạn nương tựa vào nhữngviên bảo châu ấy mà không e ngại gì cả. Đấy là những viên bảo châu không bao giờphản bội chúng ta và cũng không bao giờ làm cho chúng ta phải bị lạc hướng...

Việc quy y thường đượcdiễn ra trong một buổi lễ với sự chủ tọa của một vị thầy, có thể tổ chức ở chùahay tại nhà. Thể thức thật giản dị, chỉ cần xướng lênba lần:

Tôi xin quy y Phật

Tôi xin quy y Pháp

Tôi xin quy y Tăng

Để chính thức hóa sự kiện ấy, ngườichủ lễ sẽ cắt một lọn tóc của người tân đồ đệ, tương tự như khi Đức Phật rời bỏcung điện vua cha đã cắt tóc để tỏ sự quyết tâm đi theo con đường mà mình đã chọn.

Ngay cả ở Phương Đông, tục lệ này đôikhi cũng không còn giữ được tính cách long trọng như xưa nữa, và tiếc thay đấy lạilà những gì thật cần thiết. Người tân đồ đệ dù có xướng lên những lời ước nguyệnthế nhưng cũng chẳng cần biết đấy có ý nghĩa gì, và cũng chẳng cần phải đem rađể áp dụng trên con đường tu tập ủa mình. Vì thế nên ngày nay tại Tây Phương thiếtnghĩ cũng nên tổ chức lễ quy y thật long trọng và nên chờ đến khi nào người tutập thật sự sẵn sàng để quy y và quyết tâm tuân thủ những điều nguyện ước của mìnhthì mới làm.

Hành động quy y không phải chỉ có ýnghĩa và giới hạn trong buổi lễ. Người tu tập trong từng ngày phải nhớ đến hànhđộng quy y của mình, và phải xem đấy như là một phép tu tập đích thật, và đấy cũnglà một cách nhắc nhở mỗi người chúng ta không được quên cái lý tưởng mà chúngta hằng mong muốn là mang lại cho sự sống của chính mình. Mặc dù không hề ý thứcđược, thế nhưng thực ra thì lúc nào chúng ta cũng bám víu quá nhiều vào nhữngthứ vô ích và phù du, vì thế tốt hơn hết chúng ta nên tìm cho mình một hướng đi(tức là PhậtGiáo) để gởi gấm con tim của chính mình.

Bures-Sur-Yvette,27.01.12

Hoang Phong chuyểnngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/12/2020(Xem: 5810)
Cư sĩ Giuseppe Tucci (dʒuˈzɛppe ˈtuttʃi; sinh ngày 5 tháng 6 năm 1894 – mất ngày 5 tháng 4 năm 1984), Học giả tiên phong người Ý, nhà Đông phương học, Ấn Độ học, Đông Á học, người đã xuất bản một số sách, mở đầu cho việc nghiên cứu tôn giáo, lịch sử và văn hóa của Tây Tạng. Ông là một trong những học giả Tây phương đầu tiên du hành một cách rộng rãi trên khắp vùng cao nguyên, Phật giáo Kim Cương thừa Tây Tạng và các vùng phụ cận, những sách xuất bản của ông thường nổi tiếng về cả nội dung lẫn sự phiêu lưu mạo hiểm của ông trong khi làm nghiên cứu.
06/12/2020(Xem: 5708)
Đạo phật ngày nay đang xuyễn dương lối sinh hoạt của người con Phật là sống an nhiên tự tại trong hiện tiền. Lối sống được mọi người noi theo là tĩnh thức và hiện tại. Làm sao đạt được điều ấy? Và tại sao sống tĩnh thức và hiện tiền là chấm dứt khổ đau? Trong khi theo Phật dạy Tứ diệu đế thì tu tập diệt tận cùng lậu hoặc diệt khổ đau. Sống tĩnh thức là theo 4 y của Phật dạy: y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa. Sống hiện tiền là sống trong thiền định.
02/12/2020(Xem: 6004)
Bà Thái Việt Phan, người vừa được bầu vào Hội đồng Thành phố Santa Ana, đã sửng sốt khi nhận được thư cảnh báo từ từ ngôi già lam tự viện Phật giáo mà bà từng lui tới. Chùa Hương Tích đã bị xịt sơn và cảnh sát Thành phố Santa Ana đã coi đây là một tội ác gây ra bởi sự thù địch. Đây là ngôi tự viện Phật giáo thứ sáu bị xịt sơn trong khu vực chỉ trong tháng vừa qua.
02/12/2020(Xem: 9070)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Trong tâm tình: ''Lắng nghe để hiểu- Nhìn lại để thương'', chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi phát quà cứu đói cho 294 hộ tại 2 ngôi làng nghèo có tên là Dugarpur & Amobha cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Xin mời quí vị hảo tâm xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD.(Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người bảo vệ và sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
01/12/2020(Xem: 6355)
Cư sĩ Keith Dowman sinh năm 1945, gốc người Anh, tinh hoa Phật giáo, một vị giáo thụ giảng dạy Thiền Đại Viên Mãn (Dzogchen; 大圓滿), theo truyền thống Ninh Mã, Phật giáo Kim Cương thừa, Mật tông Tây Tạng, dịch giả các kinh điển Phật giáo Tây Tạng. Cư sĩ Keith Dowman đang cư ngụ tại Kathmandu, Nepal, nơi ông đã sống trong 25 năm. Các bản dịch của ông từ tiếng Tây Tạng.
30/11/2020(Xem: 5800)
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy Ta có thêm ngày nữa để yêu thương” Cảm ơn vì sáng nay tôi còn nghe được tiếng nói, tiếng cười của người thân, bạn bè. Nhìn xuyên qua khe cửa, lá trên cây đã bắt đầu đổi màu, biến những hàng cây xanh ngày nào thành một bức tranh hỗn hợp nhiều sắc màu. Vài cơn gió lành lạnh lại bắt đầu thổi về mang theo bao hồi ức vui buồn lẫn lộn. Tôi lặng lẽ ngồi đây như ngồi giữa thiên đường của thời xa xưa ấy. Tôi luôn biết ơn sâu sắc đến quý Phật tử xa gần đã hỗ trợ và đồng hành cho NVNY trong suốt chặng đường 5 năm qua. Nhất là những thiên thần đáng yêu tại Las Vegas, sớm hôm luôn bay về nâng đỡ cho Ni Viện khi cần. Năm 5 về trước, lần thứ tư tôi đặt chân đến đất nước xinh đẹp vĩ đại này. Tôi tận hưởng vẻ đẹp của những cánh đồng bất tận, nơi an nghỉ của ánh sáng mặt trời, nơi các đóa hoa tỏa hương thơm vào không gian; và tôi khám phá các ngọn núi tuyết cao sừng sững hiên ngang giữa trời đất, ở đó tôi tìm thấy sự thức giấc tươi mát của mùa Xuân, lòng kh
29/11/2020(Xem: 6966)
Cư sĩ Rob Nairn, vị Luật sư, Thẩm phán Trẻ tuổi nhất tại Rhodesia, Giáo sư Phật học uyên thâm, tác giả, nhà nghiên cứu dân số. Ông sinh ra và lớn lên tại Rhodesia. Ông là môn đồ của Phật giáo Kim Cương Thừa Mật tông Tây Tạng, thuộc dòng truyền thừa Karma Kagyu. Cư sĩ Rob Nairn, người đại diện cho Hòa thượng Tiến sĩ Akong Rinpoche tại Châu Phi (Chöje Akong Tulku Rinpoche,1939-2013, người sáng lập Tu viện Samye Ling Scotland), với trách nhiệm giảng dạy 11 Trung tâm Phật học tại bốn quốc gia Châu Phi. Mục tiêu của ông là giảng dạy thiền và Phật giáo Tây Tạng cho tất cả những ai yêu mến đạo Phật, cũng như ở cấp độ đại học và hậu đại học ở các quốc gia như Vương quốc Anh, Ireland, Châu Phi và Hoa Kỳ thông qua các trường Đại học và các Trung tâm Phật học.
28/11/2020(Xem: 5703)
Chàng vẫn thường chê tôi, chỉ giỏi phân tích sự kiện chứ không có đầu óc tổng hợp. Được rồi! Hôm nay tôi sẽ tổng hợp tất cả các bài Pháp của các Vị nói về đề tài nóng bỏng đang thiêu đốt các dân cư mạng, chỉ một bài hát thôi mà số người lướt sóng lên đến hàng chục triệu lần. Chẳng là gì cả, chỉ câu truyện tình liên quan đến chốn Thiền Môn, chàng là ông Thầy Tu, nàng là cô Quận Chúa. Thuở bé nàng vẫn thường theo cha đến Chùa, Tể tướng thì đàm đạo với Đại Hòa Thượng, tiểu thư "nhí" chơi đùa với "tiểu" Hòa Thượng, hay mua kẹo Hồ Lô tặng chú tiểu, cũng một loại "Tình yêu đi qua bao tử". Thế rồi thời gian thấm thoát thoi đưa, sau mười năm cặp đôi này trở thành một đôi trai thanh gái tú. Nàng đòi ở luôn trong Chùa, nhất định không chịu về, Chàng Thầy tu phải đuổi về vì phạm giới luật của một Chùa Tăng. Thế là Nàng ra đi để rồi mất dấu chân chim, một thời gian sau nghe tin Nàng tự vẫn vì bị tên Thái Tử háo sắc làm nhục.
26/11/2020(Xem: 5557)
Chín năm về trước, trang báo điện tử Phật giáo Indonesia “BuddhaZine” đã cùng nhịp bước với thời đại của thế giới thông tin truyền thống với sự tiến bộ của công nghệ internet. Sự hiện diện của “BuddhaZine” như một phương tiện truyền thông Phật giáo trực tuyến, phù hợp với sự phát triển của công nghệ truyền thông hiện đại, bước sang thiên niên kỷ mới này đã quen thuộc với thế hệ trẻ thanh thiếu niên, và đã được sự hoan nghênh đón nhận của cộng đồng Phật giáo và cư dân mạng, trên hành trình khiến “BuddhaZine” trở thành một tổ chức truyền thông quan trọng, và phát triển “Phật pháp với Nhân sinh” (Buddha Dharma, 佛法與人生), trong cộng đồng trên đất nước vạn đảo này.
26/11/2020(Xem: 10089)
“Tinh thần Dân chủ Nhân dân đã trở thành một phần, không thể tách rời trong phạm vi cuộc sống của nhân loại trên hành tinh này. Điều đó có thể nói là đã ngấm vào tận xương tủy của con người. Nhìn từ sự phát triển của một quốc gia, hay một đất nước phát triển, trên nền tảng chính trị do đa số người dân sống ở một vùng, miền nào đó thực hiện”. Sự phát triển chính trị năng động, cho phép một quốc gia phát triển với tốc độ nhanh. Nói đến Dân chủ, chúng ta cần phải hiểu rằng, Dân chủ thực sự mang lại cho con người quyền tự do biểu đạt, bày tỏ ý kiến, quan điểm, ý tưởng, chính quyền do nhân dân lựa chọn, phản ánh sự lựa chọn của nhân dân, nhà nước do nhân dân làm chủ. Mục đích của Dân chủ là đạt được công lý bình đẳng cho tất cả công dân thông qua sự trung thực, bình đẳng và bình đẳng chính trị.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]