Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giải thích về Mạn Đà La

15/08/201119:00(Xem: 7215)
Giải thích về Mạn Đà La


man-da-la

GIẢI THÍCH NGẮN VỀ VIỆC CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA

ĐỂ THỈNH CẦU GIÁO PHÁP
Alexander Berzin
Morelia, Mexico, April 2004
Lozang Ngodrub dịch, Thanh Liên hiệu đính

Trước khi ta thọ nhận một giáo pháp, điều quan trọng là việc cúng dường một mạn đà la để thỉnh cầu giáo huấn từ đạo sư. Khi chúng ta thực hiện điều này, điều thiết yếu là ta hiểu được tầm quan trọng của những câu kệ mà ta tụng niệm cùng với sự cúng dường.

Với cúng dường dâng lên các cõi Phật
Nền tảng này, tẩm đầy nước thơm, rải rắc nhiều bông hoa
Trang nghiêm với núi Tu Di, bốn lục địa, mặt trời và mặt trăng,
Nguyện tất cả chúng sanh lang thang trong luân hồi đều được đưa về tịnh độ,
Om idam guru ratna mandala-kam-nir-yatayami.
Con kính dâng mạn đà la này đến chư đạo sư tôn quý.

Trong đoạn kệ này, ta nghĩ tưởng đến một cõi Phật, một cõi tịnh độ, và cầu nguyện cho mọi chúng sanh được vui hưởng ở cõi này, thật hơi khó hiểu phải không? Trước tiên, ta cần hiểu cõi Phật hay cõi tịnh độ là gì. Đó là một nơi thuận lợi cho việc tu học và hành trì Pháp hai mươi bốn tiếng mỗi ngày. Bạn không phải làm việc; không phải ăn; không phải ngủ; không phải trả tiền thuê nhà; không phải đi nhà vệ sinh – bạn không phải làm gì khác ngoài việc tu học trong mọi lúc. Tịnh độ không phải là một nơi để bạn đến tắm mát ở hồ bơi và chơi bài suốt ngày.

Các cõi Phật tràn đầy các bồ tát thánh nhân, những vị bồ tát đã thực chứng được tánh Không vô khái niệm, và ở đó, các vị thọ nhận giáo huấn từ Báo thân của chư Phật, thân vật lý mà chư Phật hiển lộ để triển khai giáo pháp Đại thừa. Đây là những gì xảy ra ở cõi Phật, cõi tịnh độ. Tuy nhiên, ở mức độ sâu xa nhất, một cõi Phật đề cập đến tầng lớp thanh quang của tâm thức ta, tầng lớp tâm thức vi tế nhất mà một vị bồ tát thánh nhân thực chứng được. Thật sự thì nếu ta không phải làm điều gì khác ngoài việc học hỏi thêm và hành trì pháp, và nếu ta có được tâm trạng cùng hoàn cảnh thuận lợi nhất cho việc này thì tuyệt diệu biết bao.

Thế nên khi ta cúng dường mạn đà la, điều mà ta muốn hình dung ra rằng đây là hoàn cảnh thuận lợi mà ta có được, tâm ta đang ở trong trạng thái chín muồi nhất và ta mong ước rằng tất cả chúng sanh đều có thể cộng hưởng cảnh giới thuận lợi này để cùng nhau tu học. Ta sẽ thỉnh cầu giáo huấn từ đạo sư trong bối cảnh như thế này, trong lúc ta quán tưởng rằng mọi sự đều hoàn hảo và mọi việc đều thuận lợi. Trên thực tế, ta đang nói lên điều này, “Con đã chuẩn bị sẵn sàng và mở lòng để thọ nhận giáo huấn này, và nguyện cho tất cả chúng sanh cũng đều như thế.” Đó là tinh túy của sự cúng dường mạn đà la để thỉnh pháp.

Nếu trời quá nóng hay ta đang đói, v.v..., thì ta sẽ cố gắng không quan tâm tới những điều này với ước muốn mãnh liệt đế chấm dứt những chướng ngại này, để ta có thể thật sự lắng nghe giáo pháp một cách đúng đắn và không bị chi phối vì những chướng ngại nói trên. Trong lời kệ cúng dường mạn đà la, ta cúng dường núi Tu Di, bốn lục địa, v.v..., và những phẩm vật này tượng trưng cho thế giới và hoàn cảnh bình thường của chúng ta, tựa như khi nó qua nóng hay quá lạnh. Khi cúng dường những phẩm vật này, ta không chỉ bày tỏ sự sẵn sàng dâng cúng tất cả mọi thứ trên thế giới để thọ nhận giáo pháp, nhưng sâu sắc hơn, ta đang cúng dường cả thế giới bình thường cho chư Phật và cầu xin nó được chuyển hóa thành một cõi tịnh độ. Thế nên trên thực tế, việc cúng dường một mạn đà la thật sự là một hành trì tịnh hóa thái độ của chúng ta – chuyển hóa những hoàn cảnh tiêu cực thành tích cực. Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình. Ta quán tưởng rằng hiện tại ta đang an trú trong cõi Phật, một cõi tịnh độ, và ta sắp thọ nhận các giáo pháp: Trong bối cảnh này, một cõi Phật tịnh độ chính là một trạng thái của tâm. Ta không nghĩ về nó như một thiên đường nào đó ở một ngân hà khác.

Thế nên việc cúng dường mạn đà la để thỉnh cầu giáo huấn từ một vị thầy là một hành trì rất sâu sắc, không phải là một thực hành ta có thể xem thường. Mặc dù việc này có thể được thực hiện với một dĩa mạn đà la trang nghiêm, cùng với các vòng khoen v.v..., như đã đề cập trong những câu kệ ở trên, ta cũng có thể cúng dường bằng các thủ ấn thích hợp, hay ngay cả khi không có sự tượng trưng của núi Tu Di và bốn địa châu.

Tuy nhiên, dù ta cúng dường mạn đà la bằng cách nào đi nữa, điều quan trọng là ta nên dành một vài khoảnh khắc trước đó để cố gắng dẹp bỏ mọi vọng tưởng trong tâm ta và quán tưởng rằng mình đang an trú trong một cõi Phật tịnh độ. Thế rồi từ trong tâm trạng đó, ta sẽ cúng dường mạn đà la. Hãy nhớ rằng không phải ta chỉ ước mong cho một mình ta được an trú trong cõi Phật hay tâm thức thanh quang, hoặc ta đang thọ nhận giáo pháp riêng rẽ vì ta vô cùng quan trọng và đặc biệt, mà ta cúng dường với ước nguyện mãnh liệt rằng tất cả chúng sanh đều có mặt ở đó và thọ nhận giáo pháp này.

Nguyên tác: Short Explanation of the Mandala Offering of Request for a Teaching - Alexander Berzin

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level1_getting_started/approaching_study_meditation/short_explanation_mandala_offering.html. Với sự đồng ý của www.berzinarchives.com

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/05/2011(Xem: 8212)
Chữ niệm nghĩa là nhớ. Chữ Hán viết phần trên là chữ kim, nghĩa là nay, phần dưới chữ tâm, nghĩa là lòng mình. Niệm là điều ta đang nhớ tới, đang nghĩ tới. Mà điều ta nhớ và nghĩ có thể là tà, có thể là chính, vì vậy nên có tà niệm và chánh niệm.
26/05/2011(Xem: 13079)
Nhận lời mời của quý vị, hôm nay có duyên cùng quý vị bàn về tam quy y trong Phật pháp tại Bờ biển Vàng (Golden coast) Queensland- Australia. Ðối với Phật pháp đây là đề tài rất quan trọng, là chỗ nhập môn tu học của chúng ta. Trước khi nói đến tam quy, đầu tiên phải có nhận thức chính xác về Phật pháp.
21/05/2011(Xem: 7938)
Ý tưởng về bồ đề tâm thật không thể nghĩ bàn! Nó khiến cho tất cả những công việc nào không liên quan đến việc làm lợi lạc cho chúng sanh trở nên buồn chán và bất toại nguyện. Ta thật sự sẽ không còn hứng thú hay thưởng thức được đời sống của mình, ngoại trừ công việc đầy ý nghĩa này. Tất cả mọi thứ khác sẽ trở nên vô nghĩa, trống rỗng và không có thực chất.
20/05/2011(Xem: 7507)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
19/05/2011(Xem: 17029)
Hầu như ai đến phố Bolsa cũng từng thấy một khất sĩ mà nhiều người gọi là “ông sư ở Phước Lộc Thọ.” Ông mặc bộ áo cà sa vàng, khoảng 40 tuổi, tay ôm bình bát, mắt nhắm nghiền như đang thiền định. Ông đứng từ sáng đến chiều, ngày này qua ngày nọ bất kể thời tiết nóng hay lạnh. Phố Bolsa sáng sáng thường có các nhà sư đi khất thực bên ngoài những cửa tiệm, đặc biệt trong khu chợ ABC ở góc Bolsa và Magnolia. Họ xuất hiện trong vài ngày hoặc vài tuần, xong biến mất như đã hoàn tất một giai đoạn trên con đường tu tập.
18/05/2011(Xem: 21781)
Con được biết - không chắc đúng không - hôm nay 28-4, là ngày Sinh Nhật Sư Phụ tròn 88 tuổi nên con viết vội đôi dòng kính chúc Sư Phụ luôn Phước Thọ tăng long, bách niên thọ thế để hàng đại chúng Bảo Vương của chúng con nói riêng và Giáo hội nói chung luôn có được bóng mát chỡ che tinh thần và trí tuệ của một trong số rất ít còn lại hàng đại lão hòa thượng của PGVN. Riêng con vẫn còn đó một đại tự điển sống về Phật học tinh hoa cũng như về lịch sữ Việt Nam thời cận đại.
15/05/2011(Xem: 8056)
Nhân quả đồng thời được nói một cách cô đọng trong kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm… và rải rác trong các kinh điển Đại thừa. Có lẽ người đầu tiên dùng thành ngữ “nhân quả đồng thời” là Đại sư Trí Khải (thế kỷ thứ 6) trong Pháp Hoa Huyền Nghĩavà trong các tác phẩm Thiên Thai tông của ngài, y cứ trên kinh Pháp Hoa. Thành ngữ này cũng là một giáo lý chính yếu của Hoa Nghiêm tông vào thế kỷ thứ 7. Nói một cách vắn tắt và đơn giản, nhân quả đồng thời là quả giác ngộ, quả Phật vốn đã nằm nơi nhân tu hành để đạt đến giác ngộ, để thành Phật. Nhân của thành Phật là “nhân địa pháp hạnh của Như Lai” được nói trong kinhViên Giác:
14/05/2011(Xem: 14798)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sáng và tinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
14/05/2011(Xem: 7769)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
12/05/2011(Xem: 6740)
Hầu hết mọi người Phật tử Việt Nam đều không những có nghe biết mà còn thường xuyên sử dụng từ ngữ “Phật sự” Nhưng chính vì được nghe biết và sử dụng quá thông thường, cho nên, đôi khi chúng ta lại không có cơ hội để suy nghiệm về ý nghĩa thâm diệu của nó để ứng xử một cách kiến hiệu trong đời sống thường nhật. Cũng vì lý do này đã dẫn đến việc đánh mất tinh thần cốt tủy trong các Phật sự mà chúng ta đã, đang và sẽ thực hiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]