Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đám cưới tại một ngôi chùa và hướng đến mở rộng cuộc lễ nhiều ý nghĩa

24/07/201102:09(Xem: 6322)
Đám cưới tại một ngôi chùa và hướng đến mở rộng cuộc lễ nhiều ý nghĩa

ĐÁM CƯỚI TẠI MỘT NGÔI CHÙA
VÀ HƯỚNG ĐẾN MỞ RỘNG CUỘC LỄ NHIỀU Ý NGHĨA

Minh Thạnh

damcuoiochuaNgày nay, việc tổ chức đám cưới tại chùa có lẽ không mấy ai còn cho là lạ, nhưng đây là điều đã được mong muốn từ nửa thế kỷ trước, mà Ni trưởng trụ trì chùa Phước Hải hiện nay – ngày đó là sư cô Tịnh Nguyện, là một trong những vị tu sĩ mở đầu cho truyền thống tốt đẹp này.

Một số người vẫn hình dung nhà thờ là nơi để tổ chức đám cưới với tiếng đàn Organ sang trọng, âm vang dưới mái vòm trang nghiêm phủ xuống cô dâu chú rể. Còn nhà chùa chỉ là nơi tổ chức đám tang, với những “vãng sanh đường” leo lét ánh nến, nhang khói mờ mờ, âm âm tiếng mõ trầm buồn.

Sư cô Tịnh Nguyện lúc đó là một cử nhân văn khoa đã cùng với nhiều vị Tăng ni tân học sớm thấy điều bất hợp lý đó.

Tại sao khi bị nguy khốn, nạn tai thì người ta mới đến chùa (xin lễ cầu an), hay có việc buồn, tang chế thì mới đến chùa làm tang lễ, cầu siêu cúng thất, còn những dịp lễ vui vẻ và quan trọng của đởi người như hôn lễ chẳng hạn thì nhà chùa lại không có vai trò gì? Tại sao những lời dạy của đức Phật về cuộc sống gia đình, truyền thống chúc phúc của nghi lễ Phật giáo lại không thể áp dụng cho hôn lễ? Tại sao thân bằng quyến thuộc, thiện hữu có thể tề tựu cùng nhau ở chùa để ăn giỗ, ăn cúng thất của người chết, mà không thể tề tựu ở chùa để ăn đám cưới?...

Những vấn đề đó đã làm nặng lòng những vị Tăng ni bước đầu vào đạo trên con đường chấn hưng Phật giáo. Và sư cô Tịnh Nguyện gần 50 năm trước đã quyết tâm góp phần vào cuộc cải cách này.

Là trụ trì của một tự viện mới xây còn chưa ổn định, nhưng điều đó đã không ngăn cản được Sư cô thúc đẩy việc tổ chức đám cưới ở chùa cho các Phật tử. Những vấn đề khó khăn trên được giải quyết bằng việc tổ chức đám cưới ở những ngôi chùa lớn thay vì ở ngôi chùa Phước Hải khi đó còn đơn sơ, và thỉnh các vị đại Tăng làm chủ lễ, còn Ni cô chỉ là người lo công tác “hậu cần”, khâu tổ chức.

Một Phật tử, vừa là đệ tử, vừa là bạn đồng học của Ni trưởng Tịnh Nguyện kể lại: “Đám cưới của tôi được Ni trưởng Tịnh Nguyện tổ chức tại chùa Xá Lợi năm 1964. Ni trưởng khi đó lo hết tất cả phần chuẩn bị, nghi lễ. Hai họ chỉ đến dự dưới sự hướng dẫn của Ni trưởng. Chủ lễ là hai vị Thượng tọa. Buổi lễ diễn ra rất trang nghiêm, thành kính trong sự hiện diện đông đủ của bà con hai họ. Sau khi rước dâu, vị mặc áo Veston, vị mặc áo dài khăn đóng cùng nhau quỳ xuống lạy Phật với cô dâu chú rể, cùng nhau nghe Kinh Thiện Sinh, kinh Chúc phúc”.

Hôn lễ được tổ chức ở chùa đã đánh dấu một bước tiến lớn trong quá trình “đem đạo vào đời”. Đời ở đây là cuộc đời của đôi thanh niên vừa làm lễ thành hôn.
Bên cạnh ông bà, tổ tiên, quyết thuộc hai học, bạn hữu… Đức Phật và chư Tăng ni đã có mặt trong lễ cưới của họ, chứng minh ước nguyện thành gia thất của họ. Lễ cưới thêm phần giá trị tâm linh, thiêng liêng, còn không khí nhà chùa thêm phần sinh động.

Ngày xưa, nam nữ yêu nhau thì “thệ hải minh sơn”, hay “Vầng trăng vằng vặc giữa trời, đinh ninh hai miệng một lời song song” (Truyện Kiều). Thì ngày nay, hai bên nam nữ thành gia thất, nghe đọc lại lời Phật dạy, thề nguyện sống với nhau trọn đời trước mặt Đức Phật và chư tăng ni, là kế thừa truyền thống thệ nguyện thiêng liêng của dân tộc từ ngàn xưa để lại.

Nó xuất phát từ tâm nguyện của mỗi người trên bước đường thành gia thất. Chỉ có điều ngày xưa ông bà ta thề trước biển, trước núi, dưới trăng sáng, dưới trời cao, thì nay đôi uyên ương thề nguyện giữa chính điện.

Nó hoàn toàn khác và không phải bắt chước quan điểm “Sự gì mà Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không thể phân chia”. Ở đây, Đức Phật không là người kết hợp, Ngài chỉ là tượng trưng cho sự “công chứng” trên tinh thần dân chủ, tự nguyện, tiến bộ.

Việc “kết hợp” là do ở đôi bên nam nữ tự định đoạt, tự xác quyết ý nguyện và cam kết trước sự chứng minh của Đức Phật và chư vị Tăng ni. Yếu tố thiêng liêng trong lễ cưới ở chùa là thụ động (vì chỉ là sự chứng giám chúc tụng), nhưng nó nâng cao vai trò chủ động của con người, chứ không phải vâng theo sự kết hợp của đấng thần linh hay thượng đế nào con người buộc phải chấp nhận.

hangthuan3_939860872

Vị Phật tử đó kể tiếp: “20 năm sau, lễ cưới cho trưởng nữ của gia đình lại được Ni trưởng Tịnh Nguyện lại đứng ra tổ chức tại chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão, quận 1, dưới sự chủ lễ của Hòa thượng Thích Quảng Thạc”.

Dù đã là một Ni trưởng trụ trì, Ni trưởng vẫn khiêm cung, không tự mình làm chủ lễ thành hôn, mà cung thỉnh một vị hòa thượng. Ni trưởng cũng làm như thế với không biết bao nhiêu lễ thành hôn khác. Có điều trong những buổi lễ thành hôn đầu tiên, hai họ chỉ đến làm lễ không dùng cơm trưa thân mật tại chùa, thì đến những lễ cưới, sau nhà chùa là nơi hai họ dùng bữa cơm chay thanh tịnh sau khi hoàn mãn. Buổi tiệc trưa chay bên cạnh tiệc chính vào buổi chiều làm cho tình đạo càng gắn bó những người Phật tử với nhau hơn.

hangthuan2_432336155

Lễ hằng thuận tại chùa Lý Triều Quốc Sư (Hà Nội)

Đến năm 2006, lễ cưới của thứ nam gia đình nói trên được tổ chức tại chùa Phước Hải – nay đã xây dựng uy nghi. Buổi lễ được tổ chức dưới sự hướng dẫn của thầy Thích Lệ Trang – vị Thượng tọa nổi tiếng về nghi lễ.

Số đám cưới được tổ chức ở chùa theo thời gian đông dần. Lễ cưới tại chùa lần này, theo nhận xét của các bạn trẻ tham dự là một nét độc đáo trong lễ cưới hiện đại tại Việt Nam.

Nếu vẫn chỉ có đưa dâu đón dâu, làm lễ gia tiên rồi tối dự tiệc thiết đãi ở nhà hàng, thì đám cưới sẽ đơn điệu như bao nhiêu đám cưới khác. Ở đây, những người dự lễ cùng nhau đến chùa, lạy Phật, nghe kinh rồi cùng nhau thưởng thức các món ăn chay thanh tịnh tiết mục của lễ cưới được bổ sung, giá trị văn hóa trong đám cưới được nâng cao.

Mọi người đều cảm thấy một tương lại bình an và xán lạn cho gia đình mới dưới sự gia hộ của chư Phật và sự chú nguyện của Tăng ni.

hangthuan1_318847672

Lễ cưới tổ chức ở chùa được gọi bằng cái tên rất hay là “Lễ Hằng thuận”. Hai từ này gợi cho ta nhớ đến 10 nguyện của đức Phổ Hiền trong nguyện “Tùy thuận chúng sinh”, nói lên tâm nguyện đem đạo vào đời. Đồng thời nó cũng làm ta liên tưởng đến đạo đức truyền thống của dân tộc: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”.

Lễ cưới ở chùa theo hoài bão của Ni trưởng trụ trì chùa Phước Hải là sự kết hợp các giá trị truyền thống dân tộc với các giá trị đạo đức Phật giáo. Đây không phải là vấn đề hướng ngoại mà là khám phá tại chính mình, tìm về với nguồi cội tâm linh.

Đoàn xe hoa chạy vào cổng chùa cũng có thể coi là biểu tượng “đem đời vào đạo”, nhưng “đời” ở đây mang giá trị tích cực, nhưng nào đâu có phải đem, vì “đời” thực ra đã có mặt ở trong đạo lâu rồi, ngay trong lời kinh Thiện Sinh mà đức Phật đã dạy.

Minh Thạnh
(Phật Tử Việt Nam)
Ý kiến bạn đọc
13/11/201512:06
Khách
Thì ra Luật xưa cũng đã sửa sửa thành mới
14/07/201503:36
Khách
mình xưa nay theo quan niệm xưa....hôm nay mới thấu hiểu....xin lỗi sư phụ rất nhiều.....con xin sám hối vơi ngài,.....
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/02/2013(Xem: 5506)
Cách đây gần 30 năm, ông Huang Funeng bị mù sau khi mắc căn bệnh thoái hóa mắt. Kể từ đó, vợ ông, bà Wei Guiyi, trở thành đôi mắt của chồng. Hình ảnh người vợ còng dùng gậy tre dắt chồng mù không còn xa lạ với người dân ở tỉnh Quảng Tây.
07/02/2013(Xem: 12717)
Lịch Trình Hướng Dẫn Tu Học của Phái Đoàn Hoằng Pháp HT Thích Như Ðiển tại Âu Châu từ ngày 27-3-2013 đến 21-05-2013
06/02/2013(Xem: 4817)
Hôm nay, Tết Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ, tấtcả quí Phật tử gần xa đều về chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới. Nhân đây chúng tôi cũng nói chuyện và chúc Tết quí vị luôn. Năm Tỵ là năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn.
04/02/2013(Xem: 7841)
Trước khi nhập điệt, 2500 năm trước, Đức Phật đã giảng pháp lần cuối. Bài pháp thoại này đã đưọc ghi lại trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh -Maha Parinibbana Sutta -Great Passing Discourse) và đã được lưu giữ trong Tam Tạng Kinh điển Pali, những thánh điển của Phật giáo. Trong suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật đã chỉ dẫn cho chúng sanh bao giáo lý để đến được con đường giải thoát. Ở giai đoạn cuối đời, Đức Phật muốn nhấn mạnh với các đệ tử của Ngài là cần đem những lời giáo huấn đó áp dụng vào cuộc sống.
02/02/2013(Xem: 5708)
You may be surprised to hear that Most Venerable Thich Quang Do has made it known to President Obama and his Administration that Vietnam needs more than ever the service of VOA/ Vietnamese service. He is the supreme Buddhist Leader in Vietnam under House Arrest.
01/02/2013(Xem: 6278)
Đức Phật không cô lập, xa lánh vua A Xà Thế, mà là mở cơ hội cho vua đến với Đức Phật. Phật giáo cố sự đại toàn chép lời Đức Phật đón vua A Xà Thế: “Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu”. Đốivới trường hợp vương triều A Xà Thế, với một vị vua tàn nhẫn, độc đoán,hiếu chiến, Đức Phật đã tạo môi trường hóa độ như thế. Trường hợp vua AXà Thế là câu trả lời chung cho câu hỏi về mối quan hệ giữa chính quyềnvới Phật giáo trong mọi thời đại. Dù là chính quyền như thế nào, đối với Phật giáo, đó vẫn là mối quan hệ mởcửa, hóa độ, mối quan hệ cho những gì tốt đẹp nhất nẩy mầm, sinh sôi. Bài viết về trường hợp vua A Xà Thế trong quan hệ với Đức Phật và tăng đoànchắc rằng sẽ định hình những nét chính trong bức tranh quan hệ Phật giáo và chính quyền mà chúng ta đang thảo luận.
27/01/2013(Xem: 9583)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần Tài – Thổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
21/01/2013(Xem: 6501)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người. Vả lại thật cũng không tốt nếu chạy theo một tín ngưỡng nào đó rồi sau này lại từ bỏ. Ngày nay, nhiều người rất quan tâm đến đời sống tinh thần mà đặc biệt nhất là Phật giáo, nhưng thường thì họ không suy xét cẩn thận để ý thức mình đang dấn thân vào một lãnh vực tinh thần có những đặc tính như thế nào.
18/01/2013(Xem: 5736)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn được giàu nên họ khổ. Người giàu sợ bấy nhiêu tài sản chưa đủ làm người khác nể phục, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng hay hãm hại mình nên khổ. So ra, cái khổ của người giàu còn
18/01/2013(Xem: 6558)
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan niệm về tính Không – một nội dung quan trọng của kinh Kim Cương. Tính Không (Sùnyatà) là một khái niệm khá trừu tượng: vừa thừa nhận có sự hiện hữu, sự “phồng lên” (ở hình thức bên ngoài) của một thực thể, vừa chỉ ra tính trống rỗng (ở bên trong) của thực thể. Vì vậy, tính Không không phải là khái niệm chỉ tình trạng rỗng, không có gì, mà có nghĩa mọi hiện hữu đều không có “tự ngã”, không có một thực thể cố định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567