Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược Ý Hành Lễ "Nhất Bộ Nhất Bái" Trong Nghi Thức Triều Sơn Lễ Thánh Phật Giáo Bắc Truyền

04/07/201121:02(Xem: 7193)
Lược Ý Hành Lễ "Nhất Bộ Nhất Bái" Trong Nghi Thức Triều Sơn Lễ Thánh Phật Giáo Bắc Truyền

LƯỢC Ý HÀNH LỄ "NHẤT BỘ NHẤT BÁI"
Trong Nghi Thức Triều Sơn Lễ Thánh Phật Giáo Bắc Truyền

Thích Tâm Mãn

lelayLễlạy, tham bái, chiêm lễ các thánh tích của các bậc Tiên Thánh là một tập tục truyền thống lâu đời của một trong những nghi thức hành trì trong Phật Giáo, có nguồn gốc từ Ấn Độ. Tương truyền rằng trong văn hóa truyền thống cổ của người Ấn Độ có tập tục đi lễ lạy các thánh tích gọi là "Tuần lễ", chỉ cho việc đi về thánh tích của các bậc thánh nhân lễ lạy, để cầu nguyện và cũng là cảm niệm tưởng nhớ, đến hành trạng cũng như công đức của vị thánh, thần đó đã đem đến cho thế gian.

Phật Giáo từ khi Đức Thích Tôn vào vô dưNiết Bàn thì phong trào đến các thánh tích của Đức Phật để lễ lạy chiêmbái rất thịnh hành trong Phật Giáo đồ và dần dần trở thành một nghi thức quan trọng trong sinh hoạt tôn giáo của Phật Giáo, chính vì vậy thánh tích Tứ Động Tâm của Đức Phật trở thành nơi hướng về lễ bái cũng như hành hương của toàn thể tín chúng Phật Giáo trên toàn thế giới.

Tất cả những ai nếu là tín chúng của ĐạoPhật thì cũng đều chung có một tâm niệm, trong đời của mình nếu đầy đủ nhân duyên sẽ về đến thánh tích của Phật một lần để lễ lạy, chiêm ngưỡng, để thỏa nguyện được tình cảm của một người con xa cha mẹ đã lâu muốn có một lần hội ngộ, và đó là một trong những nguyên nhân chính để nghi thức triều sơn lễ thánh trong suốt hơn 2000 năm hình thành phát triển, cũng như có sức sống mãnh liệt trong Phật Giáo nói chung và Phật Giáo Bắc Truyền nói riêng.

Phật Giáo đông truyền, các vị Tăng và Phật tử của miền Đông Độ, đối với nguyện vọng về đất Phật chiêm lễ thánhtích lại càng nồng nhiệt và tha thiết hơn, cũng chính vì nguyện vọng này cho nên những vị thánh Tăng phát tâm đến miền thánh tích Tây Thiên của Phật Giáo Bắc Truyền ra đời, Trung Quốc có ngài Nghĩa Tịnh và Ngài Huyền Trang.v.v...

Việt Nam ta từ rất sớm cũng đã có rất nhiều vị thánh Tăng cũng đi về thiên trúc hành lễ thánh tích, theo sách Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện của Ngài nghĩa Tịnh đời nhà Đườngcó chép: "... ở Giao Châu (Việt Nam) cũng có các vị Pháp sư qua Tây Vực, như ngài Vận Kỳ Pháp sư, Ngài Mộc Xoa Đề Bà Pháp Sư, Ngài Khuy XungPháp Sư, Ngài Huệ Diễm Pháp sư... là những vị sư người Giao Châu đi đếnTây Vực cầu Pháp..." Và thời hiện đại Hòa Thượng Thích Minh Châu, Hòa Thượng Thích Thiện Châu..v.v... là những bậc Danh Tăng của Việt Nam đi cầu Pháp cũng như lễ bái thánh tích nổi tiếng của Phật Giáo Việt Nam đương đại.

Sách Thông Tục Biên Thần Quỷ chorằng tục triều sơn lễ thánh có ở Đông độ vào thời kỳ nhà Tây Hán, trongsách có đoạn chép: "Người ngày xưa rất ít khi đi ra khỏi nhà, nay nhữngngười giàu có, muốn đến các nơi danh sơn thắng tích để kỳ đảo...theo những nguyên nhân trên, ngày xưa đi đến một danh sơn thắng tích xa sôi nào đó để dâng hương kỳ đảo, nay gọi là triều sơn vậy, theo đây cho thấytục triều sơn có vào thời Tây Hán."

lay5

Thời kỳ Tây Hán Phật Giáo bắt đầu truyềnvào Đông độ, dần dần thịnh hành và được giai cấp thống trị cũng như quýtộc ở Đông độ tiếp nhận và phát triển. Đến thời nhà Đường Phật Giáo BắcTruyền đã đạt đến thời cực thạnh, thời kỳ này sự hưng thạnh của tư tưởng cũng như triết lý sống Thiền tông, làm cho tư tưởng cũng như đời sống hành đạo của Tăng sĩ Phật Giáo Bắc Truyền có sự thay đổi mạnh mẽ.

Phong trào đi Tây Vực để triều bái thánhtích của Phật Giáo đồ cũng có sự thay đổi rõ rệt, thay vì phải đi đến Tây Thiên họ bắt đầu triều bái lễ lại các danh sơn đạo tràng của các vị đại Bồ tát ứng thân hiện tướng ở Đông độ. Trong sách Đại Phật Tự của Trịnh Chấn Phongchép về không khí triều sơn lễ thánh ở Đông Độ như: "...quảy túi màu vàng đi triều sơn, người ốm yếu, già cả, phụ nữ, đến những thiếu nữ yểu điệu, những bác nông dân chất phát, ai nấy đều kiền thành mỗi bước mỗi cúi đầu, thậm chí có người mỗi bước một lạy, cứ như thế lạy đến đỉnh núi..."

Theo tư tưởng và quan niệm của Thiền Tông, Tâm tức là Phật, cần gì phải đi cầu Phật ở bên ngoài, Linh Sơn có đâu xa, chỉ trong tâm mà thôi, cho nên Thiền gia có câu "Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu, Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu, nhơn nhơn hữu cá Linh Sơn Tháp, hảo hướng Linh Sơn Tháp hảo tu.", tạm dịch '' Cần gì phải đến cầu Phật ở Linh Sơn, Linh sơn ở trong tâm các vị, trong tất cả các vị đều có tháp Linh sơn, nên hướng về tháp Linh Sơn để tu.

Những đạo tràng nổi tiếng nhất Đông độ, được tín đồ hành hương lễ bái thạnh nhất là Tứ Đại danh sơn, Đạo tràng của bốn Vị Bồ Tát là Ngũ Đài Sơn của Bồ Tát Văn Thù, Nga Mi Sơn của Bồ Tát Phổ Hiền, Phổ Đà Sơn của Bồ Tát Quán Thế Âm, Cửu Hoa Sơn của Bồ Tát Địa Tạng. Trong sách Hoa Nguyệt Hận hồi thứ 8chép: "...Tâm ấn phát nguyện triều sơn, đi thuyền từ Phổ Đà lên đến bờ, rồi từng bước đi đến Nga Mi, năm trước đã lễ qua Ngũ Đài.."

Triều sơn lễ lạy cầu nguyện chư vị Bồ Tát gia hộ, và học theo hạnh nguyện và đức lực tu hành của các Ngài là tâm điểm của tất cả các hành giả thực hành pháp triều sơn lễ thánh, trong đó lấy sự chí thành, kham nhẫn và nhất tâm cầu nguyện làm tông chỉ. Trong Khổ Hạnh Tấn Hương có chép: Ngày xưa người tín đồ khi triều sơn lễ bái tấn hương, trước tiên phải thực hành việc tựmình chế ngự chính mình, không để cho những cảm giác của vật chất, cũngnhư giác quan của mình, khiêu dậy những ham muốn tầm thường, kham nhẫn chịu đựng trước mọi khó khăn thử thách của thời tiết cũng như hoàn cảnh,thực hành pháp tự mình rèn luyện và mài dủa chính mình và nhất tâm kiềnthành cầu nguyện, để cầu được sự chứng minh và gia hộ của chư vị Phật Thánh. Theo truyền thống triều sơn lễ thánh của Phật Giáo Bắc Truyền có 2nghi thức: 1. Lễ lạy tấn hương, 2. Xã thân lao xuống vực.

Lễ lạy tấn hương hay còn gọi là khấu đầutriều thánh, những hành giả phát nguyện triều sơn lễ thánh, tức là từ nơi trụ xứ của mình hướng về địa điểm của mình phát nguyện đãnh lễ, có hai cách triều sơn lễ thánh, 1 là bước một bước lạy một lạy, 2 là bước ba bước lạy một lạy, cứ như thế lạy chừng nào cho đến địa điểm muốn đến mà thôi.

Tăng Già Phật Giáo Bắc Truyền ở Trung Quốc, lịch đại chư hành giả tu pháp triều sơn lễ thánh nhiều vô số kể đời nào cũng có, còn ở Tây Tạng thì hầu hết các môn đồ của Phật Giáo không kể xuất gia hay tại gia, trong cuộc đời của họ có ít nhất là một lần tam bộ nhất bái hoặc nhất bộ nhất bái, lạy từ trụ xứ của mình là người xuất gia, còn người tại gia thì từ nhà của mình hoặc là quê hương của mình thực hành triều sơn lễ thánh về cung Botala Phổ Đà Lạc Già nơi họ cho là đạo tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm.

lay2

Người dân Tây Tạng đảnh lễ nhất bộ nhất bái quanh cung điện Botala. Ảnh: M.H

Thời cận hiện đại ngôi sao bắc đẩu của thiền lâmTrung Hoa là Ngài Hư Vân Đại Hòa Thượng vì muốn báo đáp thâm ândưỡng dục của cha mẹ, theo lời Phật dạy trong Kinh Điển Đại Thừa, phát nguyện triều sơn lễ thánh để đền đáp thâm ân, Ngài phát nguyện lễ "Tam bộ nhất bái" ba bước lạy một lạy, từ Phổ Đà Sơn đạo tràng của Quán Thế Âm Bồ Tát lạy đến Ngũ Đại Sơn đạo tràng của Văn Thù Bồ Tát, lạy đến ba năm mới đến Ngũ Đài.

Pháp môn triều sơn lễ thánh trong hành trì của Phật Giáo Bắc Truyền Việt Nam cũng có một vị trí hết sức quan trọng, nhưng cách thức cũng như danh xưng thì có khác, ở nước ta triều sơn lễ thánh gọi là đi trẫy hội, đi hội, Phật Giáo Việt Nam có cội nguồnđược truyền trực tiếp từ Tây Thiên, cho nên những tập tục Phật Giáo từ Tây thiên do các Phạm Tăng đem đến vẫn còn được gìn giữ cho đên ngày hômnay, và điển hình rõ nét nhất là cách đi đến đền chùa danh sơn thánh tích trẫy hội lễ bái của người Việt, nếu đem so sánh với các không khí lễ hội tuần lễ thánh tích của các tôn giáo Ấn Độ thì ta thấy trong đó córất nhiều nét tương đồng về cách thức cũng như ý nghĩa.

Lễ bái trẫy hội vào dịp đầu xuân, cũng như các ngày lễ kỷ niệm của các bậc tiên thánh, những thánh địa của PhậtGiáo Việt Nam như chùa Hương Đạo, tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm, núi YênTử Đạo tràng của Trúc Lâm Tam Tổ, chùa Thầy, Chùa Keo, Chùa Dâu.v.v... tràn ngập không khí lễ hội, nhìn như một biển người, qua đó cho ta thấy được giá trị của pháp môn và tín ngưỡng triều sơn lễ thánh và vị trí củapháp môn trong sinh hoạt tín ngưỡng của Phật Giáo Bắc Truyền Việt Nam.

Truyền thống triều sơn lễ thánh trong Phật Giáo Bắc truyền tại Việt Nam cũng rất thịnh hành, và không khí nô nức nhộn nhịp, kính thành cũng không thua kém gì ở Trung Quốc, cho đến trong ca dao tục ngữ của người Việt có những câu liên quan đến triều sơnlễ thánh như: "Nào ai quyết chí tu hành, chưa về Yên Tử chưa đành lòng tu." hay câu: " Dù ai đi đâu về đâu, hễ trông thấy tháp Chùa Dâu thì về.Dù ai buôn bán trăm bề, nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu" và câu: " Gáichưa chồng trông hang Cắt Cớ, Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy".

Pháp môn lễ lạy Tấn hương hay còn gọi làkhấu đầu triều thánh, ở Việt Nam không được thịnh hành, và cũng rất ít những tài liệu nhắc đến các vị Tăng Việt Nam hành trì Pháp môn này. Trong hành trì của Phật Giáo Bắc Truyền ở Việt Nam cũng rất ít tài liệu đề cập đến nghi thức khấu đầu Triều sơn, đại đa số người Việt Nam biết đến danh từ "nhất bộ nhất bái" hoặc "tam bộ nhất bái" được truyền tụng qua các tích tuồng như "Tiết Đinh Sang Cầu Phàn Lê Huê" hoặc qua các tiểu thuyết giả sử của Trung Hoa như "Tiết Nhơn Quý Chinh Đông" hay "Tiết Đinh Sang Chinh Tây"..v.v...

Phật Giáo Bắc Truyền Việt Nam thời hiện đại mới bắt đầu có những hành giả thực hành Pháp khấu đầu triều sơn lễ thánh, ví dụ như Ni chúng chùa Hương Sơn, thôn Vạn Hạnh thực hành lễ nhất bộ nhất bái lên chùa núi Thị Vãi và gần đây nhất là sự phát nguyện vô cùng thù thắng Đại Đức Thích Tâm Mẫn chùa Hoằng Pháp lễ nhất bộ nhất từ chùa Hoằng Pháp T.p Hồ Chí Minh, triều sơn lễ thánh đến núi Yên Tử Quảng Ninh đạo tràng của Trúc Lâm Tam Tổ, cái nôi của Thiền Phái Việt Nam, đây là một nghi thức triều Tổ thù thắng nhất của Tăng sĩ Phật Giáo Việt Nam, một sự kiện chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Nước Việt.

lay1

Đại Đức Thích Tâm Mẫn tam bộ nhất bái triều sơn lễ Tổ Trúc Lâm Yên Tử

Với một tâm niệm của người xuất gia "Thượng Báo Tứ Trọng Ân, Hạ Tế Tam Đồ Khổ" hạnh nguyện của Đại Đức thể hiện tấm lòng của người con phương nam luôn vọng về Tổ tông xứ Bắc, việclàm của Đại Đức thể hiện ý chí kiên cường và tâm kham nhẫn của Dân Tộc Việt nói chung, của người tu sĩ Phật Giáo nói riêng. Đại Đức là người thể hiện trọn vẹn tín tâm đối với Phật Pháp Tăng không gì lay chuyển nổicủa tất cả những người con Phật, sự thể hiện này là sự chứng minh thiếtthực nhất cho dòng máu của Phật Giáo luôn luôn dâng trào trong thân thểcủa Dân Tộc Việt Nam.

Cổ Đức dạy : "Do lễ bái hình tướng của sông núi, để cầu đắc thực thể vô hình vô tướng của sông núi, đạt đến vô ngại đại bi, lòng từ không còn chướng ngại nữa." hay năng nhẫn tất cả những điều khó nhẫn như “Chúng sanh Nhẫn”, "Pháp Nhẫn", "Vô Sanh Pháp Nhẫn", "Tịch Diệt Nhẫn" trong nhẫn pháp sanh định lực, nếu như trong cảnh nghiệm được tâm, trong khổ đắc được an lạc giác ngộ thì đạt được tông chỉ tu hành của pháp môn " khấu đầu triều sơn lễ thánh" vậy.

Lại nữa: "lễ lạy triều sơn, tiêu hết mộtphần tập khí, thì giảm hết một phần phiền não, được một phần quang minh, đồng thời cũng chứng được vi diệu bồ đề". Triều sơn lễ bái hàng phục ngã mạn của chính mình, thân hành lễ bái, khẩu tụng niệm danh hiệu của Phật, ý thành tâm sám hối, tam nghiệp thanh tịnh, vì công đức này nghiệp chướng tiêu trừ, tăng trưởng phước huệ, trong thời gian lễ lạy triều sơn, rèn luyện ý chí, thành tựu Bi, Trí, Hạnh, Nguyện, bồi dưỡng ýchí chịu đựng kham nhẫn, đầy đủ năng lực tiến tu Bồ Tát lục ba la mật, thành tựu đại bồ đề đây là công đức và lợi ích của pháp Triều Sơn lễ Thánh vậy.

Người hành trì pháp triều sơn lễ thánh nên dùng tâm nguyện cảm ân để triều sơn: Đối với ân đức của chư Phật, BồTát, Hiền Thánh Tăng, từ nội tâm phát tâm nhớ niệm thâm ân trọng đức, có như vậy chúng ta mới thể hội hết công ơn to lớn vĩ đại của Tam Bảo, và cũng từ sự biết ơn này, mà phát nguyện hơn nữa trong sự nghiệp hóa độchúng sanh, kế tục khai sáng hơn nữa sự nghiệp chấn hưng ngôi nhà Phật pháp.

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải có tâm niệm tàm quý vì: "Phật tại thế thời con trầm luân, nayđược nhơn thân thì Phật diệt độ, buồn biết thân mình nhiều nghiệp chướng, ra đời không thấy được kim thân", từ tâm niệm tàm quý phát tâm sám hối, tự thân mình từ vô thủy cho đến ngày nay phiền não nghiệp chướng thâm trọng, không được chánh thời nghe Phật thuyết pháp, không được sanh vào thời Phật còn tại thế, lặng hụp đắm chìm trong biển khổ sanh tử, nay phát nguyện đi một bước lạy hồng danh Phật lạy một lạy để sám hối nghiệp chướng của chính mình.

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải có tâm niệm cung kính: Tâm niệm cung kính đối với một người phát tâm học Phật không thể thiếu được, vì muốn được Phật Pháp thì tất cả đều phải dùng tâm cung kính cầu thỉnh mới có thể có được, chúng ta phát tâm triều sơn lễ thánh tức là tâm lễ kính chư Phật, thân cận thiện tri thức, vì vậy nếu không có tâm cung kính thì khó có thể thành tựu được.

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải phát đại tín tâm vì: "Tín tâm là mẹ là nguồn gốc thành tựu các công đức", tín tâm là tâm niệm căn bản, điều kiện quan trọng nhất của người học Phật, chúng ta phải kiên định tín tâm của mình đối với chân đế của Tam Bảo, phước đức trí tuệ của chư Phật, nếu như niềm tin kiên định như vậy thì chúng ta mới có đủ nghị lực để vượt qua mọi khó khăn thử thách vô cùng gian khổ trên hành trình triều sơn lễ thánh.

lay

Người Tây Tạng đảnh lễ trước chùa Đại Chiêu - Tây Tạng. Ảnh: M.H

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải phát Bồ đề tâm. Đây là tâm cốt lỏi để cầu đắc được đạo vô thượng bồ đề, nếu không phát bồ đề tâm thì không thể thành Phật đạo, vì có phát tâm bồ đề nên chúng ta cũng cần phát tâm trường viễn, truy cầu Phật đạo vĩnh viễn không thối chuyển, trong hành trình triều sơn một bước một lạy, khiến cho chúng ta có cảm nhận sâu sắc và thấm thía hơn nữa công hạnh vĩ đại của Chư Phật, Bồ Tát và cũng từ tâm niệm này mà phát khởi tâm vô thượng đạo.

Pháp môn triều sơn lễ thánh của Phật Giáo Bắc Truyền là một phương pháp tu học vô cùng thậm thâm và vi diệu nếu như ai không đủ những tâm niệm như trên muốn hành trì pháp môn này thì thật không thể thành tựu được, nên tất cả những vị hành trì pháp mônnày đều là những vị đại sĩ của Phật Giáo khiến cho chúng ta phải kính phục và đảnh lễ học hỏi. Nhất Tâm đảnh lễ quá khứ hiện tại vị lai chư vịĐại sĩ triều sơn lễ thánh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/05/2019(Xem: 6996)
Theo Yahoo News ngày 19/11/2018, nữ dân biểu Hồi Giáo ILhan Omar vừa đắc cử ở Minnesota (nơi đông đảo sắc dân Somalia) nói rằng bà sẽ tranh đấu để hủy bỏ lệnh cấm mang khăn trùm đầu tại phòng họp của Hạ Viện kéo dài đã 181 năm. Các dân biểu của Đảng Dân Chủ tuần rồi loan báo (vào Tháng Giêng 2019) họ sẽ thay đổi luật cấm choàng khăn tại đây mà điều luật này cũng có nghĩa là cấm đội khăn trùm đầu mà Bà Omar đang đội. Bà Omar còn nói rằng, không ai trùm chiếc khăn này lên đầu tôi. Đó là lựa chọn của tôi và nó được Tu Chính Án Số Một bảo vệ. (No one puts a scarf on my head but me, Omar wrote. “It’s my choice - one protected by the First Amendment.)
16/05/2019(Xem: 8345)
Từ Bi là căn bản của đạo, căn bản của tất cả pháp lành, như đã được Đức Phật thuyết trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai (Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Phạm Hạnh (1999, PL2543), tr.520, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh). Vì thế, người con Phật không thể không thực hành hạnh từ bi.
14/05/2019(Xem: 16580)
Ở tuổi 65 của năm nay là tuổi bắt đầu đi xuống. Bệnh tật đã thể hiện ở thân và từ từ thì giờ dành cho Bác sĩ cũng như Nha sĩ nhiều hơn những năm trước; nhưng trong tâm tôi vẫn luôn cố gắng là lạy cho xong quyển 2 của bộ kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi chữ mỗi lạy trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Viên Giác Hannover. Đó là tâm nguyện của tôi, mong rằng sức khỏe sẽ cho phép để thực hiện xong nguyện vọng đã có từ hơn 30 năm nay tôi vẫn cùng Đại chúng chùa Viên Giác tại Hannover trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ thường thực hành như vậy. Đây không phải là việc khoa trương, mà là một pháp tu, một hạnh nguyện. Do vậy tôi vẫn thường nói rằng: Nếu sau nầy tôi có ra đi, mọi việc khen chê hãy để lại cho đời; chỉ nên nhớ một điều là từ 50 năm nay (1964-2014) trong suốt 50 năm trường ấy tôi đã hành trì miên mật kinh Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa, tại tư gia hay trên máy bay, xe hơi, tàu hỏa v.v… và cũng trong suốt 30 năm (1984-2014) vào mỗi tối từ 20 giờ đến 21 giờ 30 trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ
12/05/2019(Xem: 8552)
Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau: Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.
12/05/2019(Xem: 6444)
Kinh luận của Phật giáo nói với chúng ta rằng trên việc thực chứng tánh không, vọng tưởng về sự tồn tại cố hữu yếu đi, nhưng điều này không phải như sau một sự thực chứng đơn lẻ, ngắn gọn.
10/05/2019(Xem: 5610)
Y vàng thanh thoát chốn chùa chiền, Tỏa sáng niềm tin tỏa ánh thiêng Pháp lữ huân tu nền định tuệ Tăng thân trưởng dưỡng giới hương thiền An Cư thúc liễm ngời hoa giác Kiết Hạ tu trì rạng sắc liên K Nhưng tại sao lại khó như vậy ?có phải chăng, vì muốn được thân người, phải cả đời giữ gìn ngũ giới nghiêm ngặt:(1/ không sát sanh, 2/ không trộm cướp, 3/ không tà dâm. 4/ không nói dối, 5/ không uống ruợu). Nhưng vì sự hấp dẫn của “ngũ dục”(tài, sắc, danh, thực, thuỳ) để rồi thuận theo dòng vô minh, xem những tiện nghi vật chất trên thế gian này là trường tồn vĩnh viễn, là hạnh phúc muôn đời, xem những thành công về hình tướng là sự thành tựu chí nguyện, nên mặc sức để cho dòng đời lôi cuốn vào đường “thị phi”, “danh lợi” xem việc hưởng thụ “ngũ dục” là lẽ đương nhiên, là vinh dự và hạnh phúc. Từ đó lơ đểnhnăm điều cấm giới.Một khi sức giữ năm giới cấm, một cáchlơ là,mãi “lang thang làm kiếp phong trần, quê nhà ngày một muôn lần dặm xa”thì cơ hội kiếp sau làm lại được thân người,
09/05/2019(Xem: 7203)
Bà La Môn Giáo là Đạo giáo có xuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử. Họ phân chia giai cấp để trị vì thiên hạ, mà giai cấp đầu tiên là giai cấp Bà La Môn, gồm các Giáo Sĩ, rồi Sát Đế Lợi gồm những Vua, Chúa quý Tộc. Kế đó là Phệ Xá gồm những thương nhơn, Thủ Đà La và cuối cùng là hạng cùng đinh . Những người có quyền bính trong tay như Bà La Môn hay Giáo Sĩ, họ dựa theo Thánh Kinh Vệ Đà để hành xử trong cuộc sống hằng ngày; nghĩa là từ khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, học hành, thi cử, ra làm việc nước và giai đoạn sau đó là thời kỳ họ lánh tục, độ tuổi từ 40 trở lên và họ trở thành những vị Sa Môn sống không gia đình, chuyên tu khổ hạnh để tìm ra chân lý.
08/05/2019(Xem: 7225)
Tùy duyên là hoan hỷ chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại, ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi nhân duyên thích hợp hội tụ. Nhiều khi chính thái độ ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi ấy lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác.
06/05/2019(Xem: 7821)
Được đăng trong Advice from Lama Zopa Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche News and Advice. Trong khóa thiền lamrim dài tháng tại Tu Viện Kopan năm 2017, Lama Zopa Rinpoche đã dạy về nghiệp, giảng giải một vần kệ từ Bodhicharyavatara (Hướng Dẫn Về Bồ Tát Hạnh) của ngài Tịch Thiên (Shantideva), đạo sư Phật giáo vĩ đại vào thế ký thứ 8 của Ấn Độ. Đây là những điều Rinpoche đã dạy: Tác phẩm Bodhicharyavatara có đề cập rằng “Trong quá khứ, tôi đã hãm hại những chúng sanh khác như thế, vì vậy nên việc chúng sanh hại tôi là xứng đáng. Đối với tôi thì việc nhận lãnh sự hãm hại này là xứng đáng.”.
06/05/2019(Xem: 6102)
Bỏ lại sau lưng những cung bậc thị phi đời thường, lang thang vân du tìm đến những thắng tích đã phế bỏ từ lâu qua bao nhiêu cuộc thăng trầm nhung nhớ. Tôi cùng phái đoàn Phật tử thuộc Đạo Tràng Liên Tịnh Nguyện, tìm về quê hương Tuyên Quang, nằm ở phía Tây Bắc, tham quan một số điển tại Thủy Điện Na Hang, trong đó ta tìm về chiêm ngưỡng vẻ đẹp đất trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]