Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người đồng tính nam có được thọ Đại Giới không ?

17/07/201504:20(Xem: 8094)
Người đồng tính nam có được thọ Đại Giới không ?

NGƯỜI ĐỒNG TÍNH NAM CÓ ĐƯỢC THỌ ĐẠI GIỚI?

HỎI: 
Tôi xuất gia từ nhỏ, đã thọ giới Sa-di được bốn năm. Lúc nhỏ thì tôi không biết gì nhưng nay tôi phát hiện mình là người đồng tính nam (gay). Khi các bạn đồng tu biết tôi là gay, họ có vẻ kỳ thị và thường nhìn tôi bằng ánh mắt khác. Cuối năm nay, tôi sẽ được bổn sư cho đi thọ Đại giới, làm Tỳ-kheo.

Tôi có nghe rằng người đồng tính nam như tôi thì không được thọ Đại giới. Vậy điều đó có đúng không? Trước đây, tôi có nghe những người như tôi không được thọ Đại giới nên đã nhiều lần có ý định hoàn tục nhưng vì tôi không đủ can đảm để tự quyết định. Bên cạnh đó, sư phụ, bố mẹ và các thầy trong chùa cũng rất kỳ vọng và thương yêu tôi, tôi sợ sẽ làm các vị ấy đau lòng. Hiện tôi không biết phải làm sao? Mong quý Báo hoan hỷ giúp tôi. 

(ĐỨC HOÀNG, [email protected] )

ĐÁP:

Bạn Đức Hoàng thân mến!

Theo giới luật nhà Phật, và đúng như bạn đã biết, “người đồng tính nam như tôi thì không được thọ Đại giới”. Vì trước khi thọ giới, bạn không vượt qua được vòng khảo nghiệm đầu tiên của 13 già nạn. Già nạn là chướng ngại đạo pháp, tức là những điều gây trở ngại cho việc chứng đắc Thánh quả ngay trong đời này do thân và tâm có khiếm khuyết.

Bạn đã vướng vào già nạn bất năng nam - người có cấu trúc tâm sinh lý không phải chuẩn nam, từ đó phát sinh nhiều trở ngại không thể thành tựu mục tiêu phạm hạnh - nên không được phép thọ Đại giới.

Giới luật còn quy định, trong quá trình khảo nghiệm 13 già nạn, nếu bạn cố tình che giấu, vị thầy khảo nghiệm cũng không nhận ra bạn là người bất năng nam, bạn vẫn được Đại Tăng cho thọ Đại giới, nhưng về sau nếu bị khám phá ra cũng bị tẩn xuất khỏi Tăng đoàn.

Với hoàn cảnh của bạn, thiết nghĩ, bạn nên bình tâm suy xét thấu đáo về bản thân để thương mình, kính Phật, trọng Pháp, thanh tịnh Tăng nhằm tìm ra giải pháp phù hợp nhất cho sự tu học. Là người có tâm tu, có nhiều hạnh lành nên được bố mẹ yêu thương, thầy tổ kỳ vọng là điều tốt, bạn nên giữ vững các đức tính này.

Bạn là người đồng tính nam, đó là nghiệp duyên của bạn. Thực chất thì người nam, người nữ, người đồng tính nam, người đồng tính nữ, người song tính, người chuyển giới tính…, mỗi người mang mỗi nghiệp. Nói chung là họ đều tu được, đều có khả năng trở thành người tốt, có ích cho đạo và đời.

Bạn nên can cảm nói lên sự thật về giới tính của mình cho bố mẹ, thầy tổ và các bạn đồng tu biết. Vì lẽ người đồng tính nam không có gì là xấu cả. Chắc chắn bổn sư của bạn, người quyết định cho bạn đi thọ giới và chịu trách nhiệm trước Tam bảo, sẽ chỉ dạy cho bạn những điều nên làm.

Theo chúng tôi, tu học bắt đầu từ nơi tâm, nếu bạn có tâm tu, bạn có thể chỉ làm Sa-di (Bồ-tát giới), vẫn ở chùa, tu học và phụng sự đạo pháp bình thường. Mặt khác, vì không thể làm thầy Tỳ-kheo, không có cơ hội thăng tiến trong đạo pháp thì bạn cũng có thể xin phép bổn sư để hoàn tục, làm người cư sĩ và sống đúng với con người thật của chính mình, hộ trì Phật pháp.

Cũng nên nói thêm rằng, thực tế hiện nay vẫn có một số ít người đồng tính nam và đồng tính nữ trong hàng ngũ xuất gia. Không nói đến những người đồng tính hay có khuynh hướng đồng tính sau khi thọ Đại giới, mà ngay cả những người biết trước sự đồng tính của mình (như bạn) cũng vẫn tham gia thọ giới.

Chắc chắn khi dự phần vào Tăng đoàn thì các “chướng ngại đạo” sẽ xuất hiện, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hòa hợp và thanh tịnh Tăng. (Đức Phật đã dạy như vậy!). Nếu những người này vẫn không tự biết mình để an phận mà còn tìm mọi cách tham gia lãnh đạo tín đồ, lãnh đạo Tăng đoàn, thì chính điều này ẩn tàng một nguy cơ tai họa cho Phật pháp không nhỏ.

Cho nên, đó không phải là lối mòn để cho bạn nghĩ rằng, người khác làm được thì mình cũng làm được. Sự nghiệp tu học phải lấy sự thật làm căn bản. Che giấu hay chối bỏ sự thật thì chỉ đạt được hình thức mà thôi.

Vì vậy, người đệ tử Phật luôn lấy bi-trí-dũng để làm hành trang cho cuộc sống. Bạn hãy phát huy bi-trí-dũng để khẳng định và chấp nhận bản thân, ứng xử phù hợp với hoàn cảnh đúng như lời Phật đã dạy. Bởi có rất nhiều phương cách tu học và phụng sự Phật pháp tùy theo duyên nghiệp của mỗi người.

Chúc bạn tinh tấn.

Tổ Tư Vấn (Giác Ngộ)

Bài xem thêm: Hôn nhân đồng giới tính và quan điểm của Phật giáo

Ý kiến bạn đọc
18/07/201501:59
Khách
Bài trả lời có tình có lý quá. Lời khuyên lại đẫm nét từ bi, dịu dàng và thuyết phục.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5432)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4440)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5315)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5526)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8653)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6534)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6261)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4562)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9812)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 6266)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]