“Hôn Nhân Đồng Tính” tuyên bố ủng hộ của Tổng thống Hoa Kỳ Obama và quan điểm của Phật giáo

14/05/201211:30(Xem: 11527)
“Hôn Nhân Đồng Tính” tuyên bố ủng hộ của Tổng thống Hoa Kỳ Obama và quan điểm của Phật giáo


red_rose_51

Lời Ban biên tập: Trong ba ngày qua chúng tôi nhận được emails của độc giả hỏi về quan điểm của Phật Giáo về vấn đề hôn nhân đồng giới tính được công nhận trên toàn nước Mỹ bởi phán quyết của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Xin được trả lời chung qua bài viết này:

HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI TÍNH 
VÀ QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
Tâm Diệu biên soạn

Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã chính thức phán quyết rằng hôn nhân đồng giới tính là quyền hợp pháp trên toàn nước Mỹ.


Như vậy tính cho đến nay đã có 21 nước trên thế giới có hôn nhân đồng giới tính được luật pháp quốc gia sở tại công nhận (Netherlands, Belgium, Spain, Canada, South Africa, Norway, Sweden, Portugal, Iceland, Argentina, Denmark, France, Brazil, Uruguay, New Zealand, Britain, Luxembourg, Finland, Ireland) và Hoa Kỳ là nước thứ 21 đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính ngày 26 tháng 6 năm 2015 vừa qua. [1]

Đồng tính luyến ái (homosexual) được các nhà triết học định nghĩa là những ước muốn tình dục hướng tới những người cùng giới tính đồng thời giảm đi sự thích thú tình dục đối với những người khác giới và hôn nhân đồng giới tính (same-sex marriage) là sự kết hợp giữa một người nam với một người nam hoặc giữa một người nữ với một người nữ.

Bao nhiêu năm nay, hôn nhân giữa hai người đồng giới tính vẫn là một trong những vấn đề chính trị nhạy cảm ở Hoa Kỳ, nhưng nay Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã chính thức phán quyết rằng hôn nhân đồng giới tính là quyền hợp pháp trên toàn nước Mỹ.

Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama đã công khai ủng hộ việc hai người nữ hay hai người nam có thể kết hôn với nhau. Ông là vị Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên ủng hộ việc hôn nhân đồng giới tính. Để giải thích việc này, ông cho rằng tư duy của ông đã “tiến hóa” và quan điểm (của ông) đã mở rộng theo thời gian.

Trước sự kiện quan trọng này các nhà lãnh đạo Thiên Chúa giáo La Mã tại Hoa Kỳ bày tỏ sự không hài lòng với phán quyết của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ về việc cho phép những người đồng giới tính quyền kết hôn. “Bản chất của hôn nhân cuả loài người vẫn không thay đổi và không thể thay đổi, Chúa Giêsu Kitô, chúa của tình yêu, đã dạy rõ ràng rằng hôn nhân ngay từ khởi đầu là sự hợp nhất suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà," Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz của Louisville, chủ tịch hội đồng các giám mục Hoa Kỳ cho biết. [2] Tuy nhiên, nhà thần học hàng đầu của nước Mỹ, Paul Lakeland của trường đại học Fairfield University nói rằng “chẳng có cơ sở thần học nào biện minh cho lập trường của các giám mục Hoa Kỳ phản đối hôn nhân đồng giới tính”. [3]

Tưởng cũng nên biết, theo các tài liệu chính thức của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ thì hôn nhân không xuất phát từ Giáo Hội hay nhà nước, nhưng từ Thiên Chúa. Do đó, cả Giáo Hội lẫn nhà nước đều không có quyền thay đổi ý nghĩa và cấu trúc cơ bản của hôn nhân. “Hôn nhân đã được thiết lập bởi Thiên Chúa, là một sự kết hiệp trung tín, độc quyền và suốt đời giữa một người nam và một người nữ được kết hiệp trong một một cộng đoàn mật thiết của đời sống và tình yêu.” [4] Trong Cựu ước, Thượng đế nhấn mạnh đến một ước muốn sáng tạo của Ngài rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều…” [5] Theo Thánh kinh Cựu ước, việc truyền giống tạo ra kẻ nối dõi là việc làm có giá trị, cần được đề cao. Duy trì tình trạng không vợ chồng là điều đáng xấu hổ. 

Vậy còn Phật giáo đối với vấn đề này như thế nào? Phật giáo lên án hôn nhân đồng giới tính? Hoàn toàn không. Đối với Phật Giáo, đạo Phật là đạo từ bi cứu khổ, bình đẳng và không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, mầu da và giới tính. Với nguyên tắc thương yêu tất cả mọi loài chúng sinh, Phật giáo không chủ trương xét xử, không chống đối hay chỉ trích (lên án) người khác, đơn thuần chỉ dựa trên tính chất của người đó, vì điều này được xem như là một sự phê phán thiên vị và không công bằng. Vì thế, xuyên qua những lời giảng dạy của Đức Phật, chúng ta không thấy Ngài phê phán hay lên án những người đồng giới tính về phương diện đạo đức.

Trong đạo Phật, có hai giới Phật Tử, Phật tử tại gia và Phật tử xuất gia.

Đối với hàng Phật Tử tại gia, hôn nhân và sinh con được xem là tích cực, nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc gia đình của đời này và đời sau, nhưng không có nghĩa là bắt buộc. Trong giới luật áp dụng cho hàng cư sĩ tại gia, không có điều luật hay lời khuyên nhủ nào về vấn đề kết hôn giữa những người cùng giới tính.

Đối với hàng Phật tử xuất gia, những người đã từ bỏ nếp sống gia đình, phát nguyện sống đời sống độc thân, quyết chí tu hành giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, nên bị ràng buộc trong tổ chức Tăng đoàn qua bộ luật Tỳ Kheo. Theo bộ luật này, Dâm Dục là giới cấm đầu tiên trong bốn giới “Ba La Di” mà bất cứ vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni nào phạm phải giới này đều bị trục xuất hay bị khai trừ vĩnh viễn ra khỏi cộng đồng Tăng đoàn. Dâm Dục được định nghĩa là bất cứ loại hoạt động tình dục nào, cho dù đó là cùng giới tính hay khác giới tính, kể cả với loài vật.

Có thể do nguy cơ gây xáo trộn đời sống thanh tịnh của Tăng đoàn, làm cản trở tiến trình tu tập của các thành viên, nên những người đồng tính luyến ái, trong đó bao gồm cả người ái nam ái nữ và cả loại người mà kinh điển Pali gọi là Pandakas, không được thọ giới Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni, tức là không cho vào hàng ngũ Tăng đoàn.

Tuy nhiên, “Đức Dalai Lama chỉ ra rằng, những giới cấm của Phật ứng dụng tùy vào thời gian, nền văn hóa và xã hội mà con người ở đó tuân hành. Chẳng hạn, các vị Tỳ kheo mặc áo hoại sắc bởi vì vào thời điểm đó, nó phù hợp với người nghèo Ấn Độ. Ngài kiến nghị: “Nếu đồng tính luyến ái là một phần trong các tiêu chuẩn được cộng đồng thừa nhận, thì điều đó cũng có thể được chấp nhận. Thế nhưng, không một cá nhân hay vị thầy nào có thể tự thay đổi giới luật. Tôi cũng không đủ thẩm quyền tái định nghĩa những giới điều đó bởi vì không ai có thể quyết định hay ban hành sắc lệnh”. Ngài kết luận: “Việc xác định lại như thế chỉ được quyết định trong một hội nghị Tăng già với sự có mặt của tất cả các trường phái Phật giáo. Điều này không phải chưa từng có trong lịch sử Phật giáo khi muốn xác định lại một vấn đề, nhưng nó phải được thực hiện ở cấp độ tập thể”. Ngài nói thêm, điều đó thật hữu ích để nghiên cứu sâu hơn nguồn gốc của giới luật về đề tài tính dục. [6] 

Trong cuộc thăm dò dư luận mới nhất của viện Gallup [7] trước ngày Tối Cao Pháp Viện phán quyết về vấn đề hôn nhân đồng giới tính cho biết đa số người Mỹ (60%) tin rằng hôn nhân đồng giới tính sẽ được luật pháp công nhận với các quyền giống như hôn nhân truyền thống. Trong khi đó chỉ có 37% tức khoảng một phần ba người Mỹ không đồng ý. Điều này cho thấy quan điểm của người dân Hoa Kỳ đã mở rộng theo thời gian. 

Riêng đối với Phật Giáo nói chung, những người tu theo đạo Phật tin rằng, mọi sự mọi vật trên thế gian là vô thường, cuộc sống nhân sinh cũng chuyển dịch biến hoá không ngừng và tuỳ theo nghiệp của mỗi chúng sinh, giới tính có thể thay đổi từ giới này sang giới khác như người nam trở thành người nữ hay ngược lại và chuyển dịch từ đời này sang đời khác.[8] Ngay cả hiện tại cũng đã có nhiều người hoặc tự mình thay đổi với sự trợ giúp của y khoa hay tự nhiên thay đổi giới tính. Dù thế nào chăng nữa cũng không ra ngoài nhân quả. Mỗi người đều mang trong mình cái nghiệp, nghiệp lành, nghiệp dữ mình làm mình chịu, có gieo nhân tất có quả. Theo lý này, nếu một người thương yêu một người nào đó, dù cùng giới tính hay khác giới tính đều là có nhân duyên nợ nần với người đó ở quá khứ. Chính nhân duyên và nợ nần quá khứ thúc đẩy người ta tìm đến nhau và thương yêu trong hiện tại. Đó là quan hệ nhân quả bình thường. Nếu chúng ta tin tưởng vào nhân quả nghiệp báo thì chúng ta có thể chuyển đổi được nghiệp quả của mình từ xấu thành tốt, kể cả từ giới tính này sang giới tính khác bằng cách tu tập những điều mà giáo lý nhà Phật chỉ bảo, như “Làm tất cả việc lành, không làm các điều ác và tự thanh tịnh hoá tâm”.  

Tâm Diệu

Chú thích:

[1] http://www.forbes.com/sites/niallmccarthy/2015/06/29/the-countries-where-gay-marriage-is-legal-map/

[2] http://vietcatholic.com/News/Html/140123.htm 
[3] http://www.catholicculture.org/news/headlines/index.cfm?storyid=14278
[4] Sách Giáo Lý Công Giáo – số 1602-1605
[5] Sáng thế ký 1.22
[6] Damien Keown - Gia Quốc dịch
[7] http://www.gallup.com/poll/183272/record-high-americans-support-sex-marriage.aspx
[8] Trong kinh Phật có kể lại mẫu chuyện ông Soreyya từ nam biến thành nữ và từ nữ biến thành nam, mỗi lần như vậy đều có gia đình và có con, sau đó xuất gia chứng đắc đạo quả. http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-119_4-16158_5-50_6-1_17-27_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark

red_rose_50
HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH
tuyên bố ủng hộ của Tổng thống Hoa Kỳ Obama
và quan điểm của Phật giáo
Tâm Diệu biên soạn

Đa số tiểu bang của Hoa Kỳ, hôn nhân vẫn được định nghĩa theo hiến pháp qui định là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Tính cho đến tháng 5 năm 2012, chỉ có sáu tiểu bang (Connecticut, Iowa, Massachusetts, Vermont, New York và New Hampshire), và thủ đô Washington DC, đã chấp thuận hôn nhân đồng tính (giữa một người nam với một người nam hoặc giữa một người nữ với một người nữ).

Bao nhiêu năm nay, hôn nhân giữa hai người đồng tính vẫn là một trong những vấn đề chính trị nhạy cảm ở Hoa Kỳ, nhưng nay Tổng Thống Barack Obama đã công khai ủng hộ việc hai người nữ hay hai người nam có thể kết hôn với nhau. Ông là vị Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên ủng hộ việc hôn nhân đồng tính. Để giải thích việc này, ông cho rằng tư duy của ông đã “tiến hóa” và quan điểm (của ông) đã mở rộng theo thời gian.

Trước sự kiện quan trọng này, Đức Hồng y Timothy Dolan, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã ra tuyên bố chỉ trích lập trường của Tổng thống Barack Obama về hôn nhân đồng tính.

Tuy nhiên, theo Catholic World News, ba nhà thần học hàng đầu của nước Mỹ, Paul Lakeland của trường đại học Fairfield University, Daniel Maguire của trường đại học Marquette University tại, và Frank Parella của Đại học Santa Clara - đã lên án quan điểm về “hôn nhân đồng tính” của Đức Hồng Y Dolan và Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ (tức đồng thuận với quan điểm của Tổng Thống Obama). [1]

Daniel Maguire, một cựu linh mục Dòng Tên, đã xuất tu để lập gia đình nói: "Hầu hết các nhà thần học Công giáo chấp nhận hôn nhân đồng tính và người Công giáo nói chung không có quan điểm khác biệt với những người khác về vấn đề này". Trong khi đó, nhà thần học Parella cho biết ông thấy "không tìm thấy gì trong các sách Tin Mừng" là cơ sở hướng dẫn Giáo Hội phản đối “hôn nhân đồng tính”.Và nhà thần học Lakeland nói rằng “chẳng có cơ sở thần học nào biện minh cho lập trường của các giám mục Hoa Kỳ phản đối hôn nhân đồng tính”.

Tưởng cũng nên biết, theo các tài liệu chính thức củaHội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ thì hôn nhân không xuất phát từ Giáo Hội hay nhà nước, nhưng từ Thiên Chúa. Do đó, cả Giáo Hội lẫn nhà nước đều không có quyền thay đổi ý nghĩa và cấu trúc cơ bản của hôn nhân, “Hôn nhân đã được thiết lập bởi Thiên Chúa, là một sự kết hiệp trung tín, độc quyền và suốt đời giữa một người nam và một người nữ được kết hiệp trong một một cộng đoàn mật thiết của đời sống và tình yêu.” [2] Trong Cựu ước, Thượng đế nhấn mạnh đến một ước muốn sáng tạo của Ngài rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều…” [3] Theo Thánh kinh Cựu ước, việc truyền giống tạo ra kẻ nối dõi là việc làm có giá trị, cần được đề cao. Duy trì tình trạng không vợ chồng là điều đáng xấu hổ.

Như thế, đối với đạo Thiên Chúa giáo La Mã, giới thẩm quyền giáo hội Hoa Kỳ đã chính thức lên án hôn nhân đồng tính. Riêng ba nhà thần học nổi tiếng đều cho rằng,“chẳng có cơ sở thần học nào biện minh cho lập trường của các giám mục Hoa Kỳ phản đối ‘hôn nhân đồng tính”.

Vậy còn Phật giáo đối với vấn đề này như thế nào? Phật giáo lên án hôn nhân đồng tính? Hoàn toàn không. Đối với Phật Giáo, đạo Phật là đạo từ bi cứu khổ, bình đẳng và không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, mầu da và giới tính. Với nguyên tắc thương yêu tất cả mọi loài chúng sinh, Phật giáo không chủ trương xét xử, không chống đối hay chỉ trích (lên án) người khác, đơn thuần chỉ dựa trên tính chất của người đó, vì điều này được xem như là một sự phê phán thiên vị và không công bằng. Vì thế, xuyên qua những lời giảng dạy của Đức Phật, chúng ta không thấy Ngài phê phán hay lên án những người đồng tính về phương diện đạo đức.

Trong đạo Phật, có hai giới Phật Tử, Phật tử tại gia và Phật tử xuất gia.

Đối với hàng Phật Tử tại gia, hôn nhân và sinh con được xem là tích cực, nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc gia đình của đời này và đời sau, nhưng không có nghĩa là bắt buộc. Trong giới luật áp dụng cho hàng cư sĩ tại gia, không có điều luật hay lời khuyên nhủ nào về vấn đề kết hôn giữa những người cùng giới tính.

Đối với hàng Phật tử xuất gia, những người đã từ bỏ nếp sống gia đình, phát nguyện sống đời sống độc thân, quyết chí tu hành giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, nên bị ràng buộc trong tổ chức Tăng đoàn qua bộ luật Tỳ Kheo. Theo bộ luật này, Dâm Dục là giới cấm đầu tiên trong bốn giới “Ba La Di” mà bất cứ vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni nào phạm phải giới này đều bị trục xuất hay bị khai trừ vĩnh viễn ra khỏi cộng đồng Tăng đoàn. Dâm Dục được định nghĩa là bất cứ loại hoạt động tình dục nào, cho dù đó là cùng giới tính hay khác giới tính, kể cả với loài vật.

Có thể do nguy cơ gây xáo trộn đời sống thanh tịnh của Tăng đoàn, làm cản trở tiến trình tu tập của các thành viên, nên những người đồng tính luyến ái, trong đó bao gồm cả người ái nam ái nữ và cả loại người mà kinh điển Pali gọi là Pandakas, không được thọ giới Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni, tức là không cho vào hàng ngũ Tăng đoàn.

Tuy nhiên, “Đức Dalai Lama chỉ ra rằng, những giới cấm của Phật ứng dụng tùy vào thời gian, nền văn hóa và xã hội mà con người ở đó tuân hành. Chẳng hạn, các vị Tỳ kheo mặc áo hoại sắc bởi vì vào thời điểm đó, nó phù hợp với người nghèo Ấn Độ. Ngài kiến nghị: “Nếu đồng tính luyến ái là một phần trong các tiêu chuẩn được cộng đồng thừa nhận, thì điều đó cũng có thể được chấp nhận. Thế nhưng, không một cá nhân hay vị thầy nào có thể tự thay đổi giới luật. Tôi cũng không đủ thẩm quyền tái định nghĩa những giới điều đó bởi vì không ai có thể quyết định hay ban hành sắc lệnh”. Ngài kết luận: “Việc xác định lại như thế chỉ được quyết định trong một hội nghị Tăng già với sự có mặt của tất cả các trường phái Phật giáo. Điều này không phải chưa từng có trong lịch sử Phật giáo khi muốn xác định lại một vấn đề, nhưng nóphải được thực hiện ở cấp độ tập thể”. Ngài nói thêm, điều đó thật hữu ích để nghiên cứu sâu hơn nguồn gốc của giới luật về đề tài tính dục. [4]

LỜI GHI THÊM

honnhandongtinhLần đầu tiên trong các cuộc thăm dò dư luận của viện Gallup [5] về vấn đề hôn nhân đồng tính cho biết đa số người Mỹ (53%) tin rằng hôn nhân đồng tính được luật pháp công nhận là hợp lệ, với các quyền giống như cuộc hôn nhân truyền thống. Hai phần ba người Mỹ đã phản đối hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính vào năm 1996, với 27% ủng hộ. Điều này cho thấy quan điểm của người dân Hoa Kỳ đã mở rộng theo thời gian. Riêng đối với Phật Giáo, những người tu theo đạo Phật tin rằng, mọi sự mọi vật trên thế gian là vô thường, cuộc sống nhân sinh cũng chuyển dịch biến hoá không ngừng và tuỳ theo nghiệp của mỗi chúng sinh, giới tính có thể thay đổi từ giới này sang giới khác như người nam trở thành người nữ hay ngược lại và chuyển dịch từ đời này sang đời khác.[6] Ngay cả hiện tại cũng đã có nhiều người hoặc tự mình thay đổi với sự trợ giúp của y khoa hay tự nhiên thay đổi giới tính. Dù thế nào cũng không ra ngoài nhân quả. Mỗi người đều mang trong mình cái nghiệp, nghiệp lành nghiệp dữ mình làm mình chịu, có gieo nhân tất có quả. Theo lý này, nếu một người thương yêu một người nào đó, dù cùng giới tính hay khác giới tính đều là có nhân duyên nợ nần với người đó ở quá khứ. Chính nhân duyên và nợ nần quá khứ thúc đẩy người ta tìm đến nhau và thương yêu trong hiện tại. Đó là quan hệ nhân quả bình thường. Nếu chúng ta tin tưởng vào nhân quả nghiệp báo thì chúng ta có thể chuyển đổi được nghiệp quả của mình từ xấu thành tốt, kể cả từ giới tính này sang giới tính khác bằng cách tu tập những điều mà giáo lý nhà Phật chỉ bảo, như “Làm tất cả việc lành, không làm các điều ác và tự thanh tịnh hoá tâm”.

Tâm Diệu

[1] http://www.catholicculture.org/news/headlines/index.cfm?storyid=14278
[2] Sách Giáo Lý Công Giáo – số 1602-1605
[3] Sáng thế ký 1.22
[4] Damien Keown - Gia Quốc dịch
[5] http://www.gallup.com/poll/147662/first-time-majority-americans-favor-legal-gay-marriage.aspx
[6]Trong kinh Phật có kể lại mẫu chuyện ông Soreyya từ nam biến thành nữ và từ nữ biến thành nam, mỗi lần như vậy đều có gia đình và có con, sau đó xuất gia chứng đắc đạo quả. http://old.thuvienhoasen.org/u-noitam-04.htmhay /D_1-2_2-119_4-16158_5-50_6-1_17-27_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2025(Xem: 300)
Trong xã hội ngày nay, khi lời nói dễ dàng trở thành vũ khí sát thương, nó có thể đến từ nguyên nhân: “đề cao cái tôi cá nhân”, “thích phán xét và công kích”, xem sự trừng phạt người khác là tiêu chí để nâng cao đạo đức bản thân, hạ bệ những quan điểm trái chiều. Bạo lực ngôn từ cho thấy sự bất lực của nhận thức khi ngôn ngữ lý luận bị vô hiệu hóa bằng những ngôn từ trấn áp thô thiển.
01/11/2025(Xem: 203)
Từ nội quy – quy chế đến tiêu chí đạo hạnh và năng lực: Một bước tiến tất yếu của GĐPT Việt Nam Trong suốt chiều dài lịch sử, không ít nhà lãnh đạo đã dùng tài trí, học vị và sự khôn ngoan thế tục, phe phái để củng cố địa vị và điều hành tổ chức. Tuy nhiên, khi thiếu nền tảng đạo đức, những thành tựu ấy thường không bền vững và mang lại một hậu qủa đáng tiếc không thể lường được. Ngược lại, người hành xử bằng đạo đức, lấy tâm từ bi và trí tuệ Phật pháp làm kim chỉ nam, dù không hào nhoáng, nhưng vẫn được lòng người và để lại ảnh hưởng lâu dài. Tài trí có thể rèn luyện, nhưng đạo đức là một sự lựa chọn – một cam kết nội tâm.
16/09/2025(Xem: 512)
Những nhà nghiên cứu Tây phương cho rằng các tôn giáo lớn trên thế giới là những tôn giáo đã từng tạo ra chiến tranh trong quá khứ. Họ nói rằng, sở dĩ những tôn giáo nầy lớn mạnh khắp thế giới là do họ dùng thế lực chính trị đi đánh các nước trên thế giới và ép người theo đạo. Do đó, tôn giáo của họ trở thành tôn giáo lớn trên thế giới. Hiện tại, những nhà lãnh đạo tôn giáo vẫn tham gia vào chính trị và chiến tranh trên thế giới, và trong tương lai cũng sẽ như vậy.
30/06/2025(Xem: 606)
Chùa thành lập BQT là một hình thức mới lạ, chưa từng được biết trong giới Thiền môn. Khi xã hội tiến nhập vào một tổ chức chặt chẻ, tất cả mọi sinh hoạt ngành nghề đều được vào khuôn khổ với nhiều danh xưng như “hợp tác xã, Tổ hợp, công ty, hội đoàn…” Đất nước ta,Tôn giáo là một thành viên của Mặt trận; trong Mặt trận gồm nhiều hội đoàn như hội phụ nữ, các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài…
23/06/2025(Xem: 1455)
Trong tổ chức Gia Đình Phật Tử (GĐPT), mỗi huynh trưởng khi phát nguyện gia nhập đều xuất phát từ tinh thần tự nguyện, tự giác và phát nguyện giữ gìn điều luật và giới hạnh, nỗ lực tu tâm dưỡng tánh theo chánh pháp. Do vậy, GĐPT không xây dựng trên một hệ thống kỷ luật mang tính cưỡng ép: không có cần áp dụng quyền bỏ phiếu bãi tín nhiệm (vote of nonconfidence), không có “hội đồng luận tội” hay “hệ thống án kỷ luật” áp đặt lên cá nhân. Thay vào đó, mọi quy phạm đều dựa vào lương tâm, lòng tự nguyện xin sám hối và nguyện sửa đổi… của từng huynh trưởng trước tập thể, trước Tam Bảo và dưới sự chứng minh của chư tôn đức.
21/06/2025(Xem: 639)
Mùa An cư kiết hạ Phật lịch 2569 - Dương lịch 2025 lại trở về, là cơ hội quý báu để hàng hậu học chúng ta ôn lại lời Phật dạy, suy ngẫm thâm ý của chư Tổ, và tự quán chiếu bản thân trên con đường tu tập giải thoát. Trong bối cảnh hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển, những cám dỗ, thử thách cũng càng trở nên tinh vi, phức tạp, việc giữ gìn giới hạnh và sống đúng với tinh thần của một vị “Sứ giả Như Lai” trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Thiết nghĩ, bài học về “Sư tử trùng thực Sư tử nhục” “獅子蟲食獅子肉”– chỉ có vi trùng của sư tử mới ăn thịt được sư tử. Cũng vậy, đạo Phật bị tàn hoại, bị tha hoá, có thể đi đến diệt vong cũng bởi những người tu Phật. Đây là một lời cảnh tỉnh sâu sắc, thâm thúy dành cho tất cả Tăng Ni trẻ chúng ta.
01/06/2025(Xem: 21023)
Trong cuộc sống, việc bất bình thường không phải ít; có khi bị thần kinh, có khi bị ảo giác, hay hoang tưởng, có khi bị chấn thương đưa đến bất thường, có lúc tu tập không có Minh sư hướng dẫn, hành giả không đọc kỹ kinh Lăng Nghiêm… Cũng có khi sở đắc một khía cạnh nào đó rồi cứ ngỡ là toàn giác.aĐại hội lần thứ 11 của Hội Đồng Tăng Già Phật giáo Thế Giới được tổ chức tại Auckland, New Zealand từ ngày 2 đến ngày 5 tháng 3 năm 2024, được tổ chức bởi Tu viện Quán Âm và đồng tổ chức bởi Chùa Từ Minh, Chùa Phổ Hiền và Chùa Pháp Tựu. Về tham dự Đại Hội kỳ 11 này có 497 đại biểu từ 28 quốc gia (bao gồm 239 thành viên chính thức, 115 quan sát viên xuất gia và 143 quan sát viên tại gia). Với chủ đề “Trở về thiên nhiên để cùng tồn tại hài hòa”, đại hội nhắm đến việc tìm hiểu mối quan hệ giữa Phật giáo và bảo tồn môi trường, đồng thời kêu gọi quý Tăng Ni khắp nơi trên thế giới cùng chung tay giải quyết các vấn nạn môi sinh toàn cầu như vấn đề biến đổi khí hậu và thiệt hại về môi trường sinh thá
30/05/2025(Xem: 1155)
Thế giới chưa bao giờ nhỏ bé như vậy. Thế kỷ 21 đã đem lại những thay đổi mà tổ tiên của chúng ta không thể tưởng tượng được. Dù rằng nhiều thế kỉ qua, những quốc gia có nền văn minh cao luôn đặt lòng tin vào khả năng suy nghĩ và hành động có lý trí của từng cá nhân mà họ mệnh danh là trí thức , hơn thế nữa họ luôn khuyến khích mỗi cá nhân phải trưởng thành trong độc lập và lý trí. Nhưng có thể nói con người ở thế kỉ 21 thiếu hiểu biết hơn là chúng ta tưởng và việc tin vào khả năng hành động lý trí của mỗi người là một sai lầm không nhỏ. Vì sao vậy
23/05/2025(Xem: 1468)
Hành vi mặc y phấn tảo nhưng vẫn sử dụng điện thoại, quay video livestream, di chuyển bằng máy bay, kêu gọi tài trợ, không sống trong rừng, không y cứ nơi tịnh địa, là sự đánh tráo giá trị của hạnh đầu-đà, xúc phạm pháp tu thù thắng mà Đức Phật đã khai mở cho các bậc Thánh giả.
13/05/2025(Xem: 1190)
Bài này được viết với chủ đề ghi lời Đức Phật dạy rằng hãy giữ thân không bệnh, để có thể học và tu pháp giải thoát. Bài này được viết để làm tư lương cho tất cả những người con Phật khắp thế giới, trong mọi hoàn cảnh. Duyên khởi là vì cõi này rất vô thường, thân người lại mong manh, nếu chúng ta chưa tu tới đâu, mà thân bệnh nguy ngập thì sẽ có thể bỏ lỡ một kiếp này.