Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thực tập tu tâm

23/04/201103:37(Xem: 6694)
Thực tập tu tâm
Hoa Cuc Chau Phi (4)

Một câu hỏi mà mỗi người hay tự đặt ra với chính mình: Ta là ai? Ta là gì? Kiếp sống này mai kia chết rồi sẽ đi về đâu? Có cái gì không sinh không diệt trong hình hài này? Trong quá trình tu tâm, nhiều Phật tử thắc mắc: Tâm Phật là gì? Niết Bàn ở đâu? Chân Tâm là vui, buồn, oán, thương, hay là những dòng suy nghĩ luôn tuôn chảy trong ý thức của ta? Khi ta không vui không buồn, vắng bặt suy nghĩ, khi ta ngủ hay hôn mê, cái tâm ấy còn hay mất? Làm sao để giữ cho tâm bình an trong cuộc đời đầy xao động?

Những câu hỏi đó đi theo chúng ta cả đời. Đến khi tuổi già dần đến, thấy cái chết đã gần kề, ta càng hoang mang, hối hả đi tìm câu trả lời, để mong có được sự thanh thản cho tâm hồn. Cũng giống như chú mục đồng đi tìm con trâu, không biết tìm ở đâu trong rừng chiều mù mịt …Chú mục đồng bắt gặp được những dấu chân trâu để lại ven rừng. Chú đã bắt đầu tin là con trâu đang ở quanh đây, nên bớt hoang mang.

Chiêm nghiệm từ cuộc đời, do quan sát tâm, con người bắt đầu nhận ra vui-buồn, khổ đau-hạnh phúc đều bắt nguồn từ trong tâm người mà ra. Đối với người Phật tử, ta bắt đầu thoáng hiểu Niết Bàn, hay Tâm Phật, hay Chân Tâm có thể tìm được ngay trong tâm mình. Phật tâm hình như nằm đâu đó ngay trong thân tâm này. Quá trình đi tìm hạnh phúc, hay đi tìm cái không sinh không diệt, đều là quá trình quay cái nhìn vào bên trong tự thân, chứ không phải đi tìm bên ngoài.

Một phương pháp đơn giản, nhưng hữu hiệu để bắt đầu điều phục tâm là theo dõi hơi thở. Chú tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra để lắng tâm, đem tâm trở về với giây phút hiện tại. Người Phật tử bắt đầu lần theo dấu vết của Chân Tâm.

Sau một thời gian dài mỏi công tìm kiếm, chú mục đồng reo vui, vì đã thấy được con trâu rồi! Lúc đó chú thấy cuộc đời tươi vui trở lại, cảnh sắc thiên nhiên xung quanh cũng vui theo.
 
Đối với người Phật Tử, nhờ vào thiền tập, tụng kinh, niệm Phật, lễ bái Hồng Danh, ta nhận ra bóng dáng Phật Tâm ngay trong thân này, vào ngay giây phút hiện tại này. Đó là lúc tâm ta bình an, hạnh phúc. Đó là những lúc nhờ tu tập, ta thấy tâm thoát được não phiền, có được những giây phút tĩnh lặng, tự tại.

Một cách đơn giản để bắt đầu sống với Phật Tâm là hãy sống với giây phút hiện tại. Ta tạm thời bỏ qua những lo toan của cuộc sống, tạm thời không vướng mắc vào những buồn vui đến và đi liên tục. Ta tập thắp sáng sự Nhận Biết trong từng động tác mà mình đang làm, bây giờ và ở đây. 
 
Tuy nhiên, vì sự thực hành chưa thuần thục, vì chúng ta vẫn chưa đủ niềm tin vững chắc, nên những phút giây mà Phật tâm hiển lộ kéo dài chưa được lâu. Chúng ta cần thêm thời gian, kinh nghiệm tu tập.

Lúc chú mục đồng bắt được con trâu, cũng là lúc chú nhận ra sức mạnh của nó. Nó hung hăng, không lúc nào chịu đứng yên! Lúc nào nó cũng muốn vùng ra sự kềm tỏa, để chạy đi đây đi đó, sang ăn lúa mạ của cánh đồng người.

Trong tiến trình tu tâm, người Phật tử nhận ra tâm mình cũng vậy. Quả là Tâm người như con vượn chuyền cành. Tâm như Tề Thiên Đại Thánh, chu du khắp nơi chỉ trong nháy mắt. Đang tính chuyện của hiện tại, mà tâm đã nhớ về chuyện quá khứ, nghĩ tới tương lai hồi nào mà mình không hay! Đang quan sát một đóa hoa hồng trong vườn nhà, vậy mà tâm đã nghĩ đến một rừng hoa ở xứ sở nào xa xôi, mà ta không cưỡng lại được.

Người Phật tử phải kiên trì sống trong sự tỉnh thức, phải biết đem tâm quay trở về với thân. Khi sống được với chánh niệm, ta sẽ thấy những xao động trong tâm thức như vui buồn tự nhiên rơi rụng. Lúc đó, Tâm bình an sẽ từ từ thay thế, hiện hữu lâu hơn trong ta.

Để làm thuần tính hung hăng của con trâu, chú mục đồng phải biết chăn dắt nó. Chú phải dùng dây để giữ nó lại. Chú phải có cây roi, để mỗi khi trâu định chạy sang ăn lúa của cánh đồng người, chú quất roi để nó trở về, từ bỏ thói quen xấu.

Để điều tâm, một trong những phương pháp hữu hiệu nhất là Thiền Tứ Niệm Xứ, bao gồm quán thân, quán cảm thọ, quán tâm, quán pháp. Bước đầu căn bản nhất, dễ thực hành nhất chính là quán thân. Trước tiên là tập theo dõi hơi thở. Sau đó là niệm thân hành. Chỉ cần trong mọi động tác thông thường như đi, đứng, năm ngồi, ta đặt trọn vẹn tâm mình vào chúng, ngay trong phút giây hiện tại. 
 
Nói một cách khác, ta dùng sự Nhận Biết để quan sát mọi động thái của thân. Từ đó, ta thấy ngoài cái thân này, trong ta còn có một cái Tâm đứng ngoài quan sát. Ta không là thân này, mà ta là Sự Nhận Biết sáng tỏ, hiện tiền.

Rồi khi quán cảm thọ cũng thế. Mỗi khi có một cảm thọ vui buồn, yêu thương, hờn giận khởi lên trong ý thức, ta hãy lập tức nhận diện nó. Ta hãy đặt ngay câu hỏi: “Ai đang giận? Ai đang buồn?”. Khi hỏi như vậy, ta sẽ nhận ra là ta không hề là buồn, vui, oán hận. Chúng đến rồi đi, nhưng cái Tâm Nhận Biết chúng thì vẫn còn ở lại trong ta.

Tu tâm chỉ đơn giản vậy thôi! Hãy sống trong chánh niệm, ta sẽ nhận ra Phật Tâm chính là Sự Nhận Biết, có sẵn ở trong ta. Ta sẽ làm chủ được thân, tâm của mình. Ta sẽ có được an lạc cho chính ta trong mọi hoàn cảnh.Ta nhận ra rằng Niết Bàn có ngay bây giờ, ở đây trong tâm mình.

Con trâu qua một thời gian được chăn dắt nay đã thuần tính. Chú mục đồng không còn phải nhọc công chăn trâu nữa. Chú ngồi trên lưng trâu, thổi sáo an nhàn, trâu vẫn thong thả tự tìm đường về nhà. Hình ảnh thanh bình làm sao!

Khi người Phật tử đã thuần thục các pháp thực hành để điều tâm, đến một lúc nào đó, tâm sẽ tự an trú trong chánh niệm. Ta không cần phải gắng công theo dõi tâm, kéo tâm trở về giây phút hiện tại như ban đầu nữa.
Không cần cầu xin, không cần cố gắng. Chính cái tâm còn mong cầu “thấy Phật” sẽ làm cản trở cho tâm ta thể nhập vào chiều sâu tĩnh lặng của Chân Tâm.

Tu tâm đòi hỏi thời gian, đòi hỏi phải có sự thực hành đều đặn, kiên trì. Khi đã kéo dài được thời gian tâm an trú trong Sự Nhận Biết đơn thuần, không vướng bận vào buồn vui, lo nghĩ, toan tính, lúc đó Tâm Phật Bất Động sẽ tự tỏa sáng. Ta làm bất cứ việc gì trong ngày như đi đứng, ăn uống, tập thể dục, lái xe… cũng đều trong tỉnh thức, không xa rời chánh niệm.

Chú mục đồng đã cưỡi trâu quay về nhà rồi. Vậy thì chú còn giữ trâu làm gì nữa? Chú thả trâu, bỏ luôn cả roi chăn, dây dắt. Chú thảnh thơi, thong dong với chính mình, không còn bận tâm đến việc chăn trâu nữa.

Người Phật tử lúc bắt đầu tập điều phục tâm, phải dùng cái “Tâm Nhận Biết” để quan sát thân, cảm thọ, dòng ý nghĩ tuôn chảy. Khi đã thuần thục rồi, thì ta chỉ còn sống với cái Tâm Phật bất động duy nhất, không còn chủ thể và đối tượng. Ta chính là Sự Nhận Biết. Ta không cần phải “quan sát” một đối tượng nào bên ngoài để duy trì cho Sự Nhận Biết có mặt. Ta thể nhập vào Lý Bất Nhị, vắng bặt mọi ngôn ngữ.

Đã không còn trâu để chăn dắt, thì người cũng không
còn. Chỉ còn một không gian bát ngát, vô tận, tĩnh lặng, nhưng vẫn sống động. Người Phật tử đến giai đoạn này thể nhập vào tánh không của vạn pháp. Cả cuộc đời tu tập để có được trạng thái nhiệm mầu, vô sinh vô diệt này. Tâm Phật Bất Động, hay Niết Bàn, hay Chân Như là đây! Người Phật tử đoạn được tử sinh, thênh thang đi vào cõi Niết Bàn ngay trong giây phút hiện tại. 

Thật là bất ngờ,chú mục đồng khi trở về nhà thì mới nhận ra rằng cái mà mình mãi đi tìm lâu nay đã có sẵn trong nhà từ lâu, mà trước đó chú không hề nhận ra!

Người tu tâm thể nhập vào Tâm Niết Bàn, mới nhận ra nó đã có sẵn trong tâm mình tự bao đời nay rồi. Chúng ta giống như một người ngồi trên đống vàng mà không biết, luôn than mình nghèo khổ! Phật Tâm chưa từng sinh, chưa từng diệt, chưa từng rời khỏi cái tâm bình thường! Bây giờ vui buồn dù có khởi lên trong tâm cũng không thể nào che khuất được Chân Tâm rạng ngời. 
 
Người xưa vẫn thường nói: Phật Tâm như mặt hồ tĩnh lặng. Chim trời bay qua, mặt hồ in bóng. Khi chim đã bay đi rồi, mặt hồ lại sạch không trở lại, chẳng hề in lại dấu vết.

Chú mục đồng giờ đây thong dong đi giữa chợ đời như bao người. Chú bình thản tiếp xúc, giúp đỡ mọi người với một cái tâm vô cầu, thảnh thơi, không vướng mắc.

Khi đã thấu đạt đạo lý, người Phật tử có thể tùy duyên thực hành bồ tát đạo trong cuộc sống thường nhật. Bồ tát như hoa sen nở giữa chốn bùn nhơ, không những không hôi tanh mùi bùn, mà còn làm đẹp thêm cho cả hồ sen. Người mạng hạnh bồ tát hiến tặng tình thương, bình an đến cho mọi người. Bởi vì người ta chỉ có thể cho những gì mà mình có. Bồ tát cứu nhân độ thế giữa nhân gian, nhưng không hề để mất Phật Tâm, và cũng không tạo thêm duyên nghiệp nào để vướng vào vòng tử sinh nữa.

Tâm Nhuận Phúc (2014)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16024)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3709)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6081)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6272)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3970)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8309)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5594)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15585)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10826)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7912)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]