Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trẻ không nhà

15/01/201112:36(Xem: 5941)
Trẻ không nhà



lotus_3
TRẺ KHÔNG NHÀ

Minh Mẫn

Còn mấy hôm nữa là 30 tết; Mọi người tất bật, nhà nhà chộn rộn, quét dọn, sắm sửa. Từ Thành phố đến thôn quê, xe cộ nhộn nhịp như mắc cửi. Anh chị em nhà nó, mỗi đứa một nơi, nét mặt vẫn hồn nhiên vô tư cứ như lúc còn ở chung nhà với bố mẹ.

Từ lúc bố mẹ đi làm ăn xa, gửi chúng ở lại với gia đình người chú, một cơ ngơi khá đồ sộ, gia sản đó, có một phần của bố mẹ chúng đóng góp xây dựng.Hàng tháng, từ đất khách quê người, bố mẹ vẫn gửi tiền về nuôi bốn đứa chúng nó. Anh em nhà chú nhà bác vẫn thuận hòa vui vẽ, đầm ấm, những gia đình chung quanh nhìn thấy mà ngấm ngầm tỵ hiềm. Gia sản ngày một phát đạt, nhà chú nó cứ muốn tậu thêm nhiều đoàn xe chạy Bắc Nam, muốn có thểm cổ phần đầu tư địa ốc, muốn có nhà máy chế biến nông sản xuất khẩu. Chú chúng nó giao thiệp rộng, quen biết nhiều, vì thế một số đại gia, quan chức đều dành một phần hợp tác kinh doanh cho ông ta.

Trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, việc làm ăn khựng lại, thu nhập ít hơn, vốn hợp tác đầu tư cần thêm, để công ty thoát cơn khủng hoảng, một cổ phần trong công ty gợi ý chú chúng nó kêu gọi bố mẹ chúng rót thêm tiền với lý do phát triển cơ ngơi cho tương lai chúng nó. Bố mẹ chúng tuy sống xứ người, nhưng đâu phải nhà máy in bạc hay giám đốc ngân hàng. Hàng ngày bố đưa công nhân đi cắt cỏ thuê, mẹ chạy hàng cho các shop ở China Town. Tiền thuê nhà, tiền thuế má, bảo hiểm xã hội và đủ mọi thứ, phải ăn nhín nhịn thèm để có dư, gửi về nuôi con ở lại ăn học.Từ khi ông bà nội mất, bố và chú nó đùm bọc thương yêu nhau. Bố mẹ chúng nuôi lớn chú nó, cho chú nó có thêm con chữ, dựng vợ gả chồng cho đến lúc chú thím nó ăn nên làm ra. Cha mẹ chúng vượt biên, gửi lại bốn con; chú thím nghĩ tình ruột thịt, mang ơn ông anh, lại thêm nuôi chứa bốn đứa cháu như giam giữ bốn con tin, làm sao anh chị không gửi tiền về đều đặn nuôi nấng; vì vậy chú thím đối xử anh em nhà nó như khách quý trong nhà.Đám con nhà chú cũng trọng nể, thân thiết chúng như anh em ruột. Chú em ở quê nhà cứ tưởng bố mẹ chúng sung sướng tiền dư của để, lúc thì gợi ý xây thêm nhà cửa cho mỗi đứa, khi thì đề nghị giúp vốn trả nợ, mai đám giỗ ba, mốt xây mộ mẹ, mỗi lần nghe chú thím điện qua là bố mẹ chúng nhót ruột, chuẩn bị vểnh tai nghe kể lể xin xỏ… yêu cầu bị từ khước, chú thím nó đâm ra hận thù bất mãn. Bạn bè làm ăn đốc vào xúi ra; để làm áp lực với bố mẹ chúng, một hôm, chú nó dồn chúng ở chung một căn phòng trên lầu mà trước kia mỗi đứa một chỗ riêng, viện cớ kinh tế khó khăn, cần có phòng cho thuê hoặc phát triển thương vụ. Bắt đầu hạn chế tiêu xài điện nước, bắt chúng nó tự túc gạo cơm. Ngôi nhà bề thế nhất thị trấn, từng là đại gia đình đầm ấm hạnh phúc nhất, giờ đây đã có hai nhà bếp, hai lối sinh hoạt cách biệt. Chúng nó đi về, đều qua ngả thang lầu cập mé vách bên ngoài. Không khí trở nên im ắng khác thường. Mấy đứa con chú nó cũng lạnh nhạt với chúng. Chúng không được xuống nhà dưới để trò chuyện tâm sự với bầy em con nhà chú như trước.

- Tại sao vợ chồng mầy không dám tống khứ chúng đi; nó ỷ bố mẹ nó là Việt kiều, rót tiền về hàng tháng nên chúng bất cần chúng mầy, không thèm hạ mình năn nỉ xin xỏ…Những ông bà xóm giềng đâm vào thọc ra. Họ ghét loại Việt kiều keo kiệt, không hề biết giao hảo quà cáp với những người quanh nhà. Mỗi khi có người về thăm quê, bố mẹ chúng gửi một ít quà về cho chú thím nó, chòm xóm nghe được, bu lại tò mò thăm hỏi, tuyệt nhiên bao năm nay, họ thất vọng cái ông bà Việt kiều chỉ biết có con em họ mà không biết nghĩ đến tình làng nghĩa xóm, tối đèn tắt lửa đều nhờ vả lẫn nhau, mới qua Mỹ mấy năm mà đã ảnh hưởng tính thực dụng kiểu Mỹ, ai ăn nấy trả… Lời ra tiếng vào, chú thím nhà nó nghe cũng bùi tai, mỗi ngày một gay gắt với bốn đứa cháu.

Từ ngày chúng bị cách ly, bố mẹ không gửi tiền qua chú em mà trực tiếp đến bọn nhóc, càng tạo thêm phẩn uất nhà họ chú.
- Ông thấy không, nuôi ong tay áo, vợ chồng mình được lợi gì mà phải è cổ ra đùm bọc chúng nó; người ngoài còn biết lo cho mình, góp ý cho mình chuyện phải chuyện quấy, bố mẹ chúng nó cứ xem mình như nhà giữ trẻ, mỗi tháng thí vài đồng như thế là xong ư! mình đâu cần những đồng tiền lẻ như thế! bằng mọi giá, ông phải tẩn xuất chúng đi cho khuất mắt, bác Tư góp ý như thế là đúng. Bà vợ cứ lải nhải cằn nhằn làm chú nó càng thêm cương quyết.
*
* *
Một buổi sáng, đứa con cả của chú nó, không lớn hơn anh em chúng, mời chúng nó xuống sân, dõng dạc tuyên bố: Chúng mầy, dòng dỏi ăn cháo đá bát, phải cút ngay khỏi nhà tao.Bố mẹ tao không chứa chúng mầy, kỳ hạn một tuần, chúng tao không muốn thấy mặt chúng mầy nữa. Anh em chúng nó im lặng, không hiểu nguyên nhân nào mà chú thím thay đổi thái độ nhanh thế. Những thằng em con nhà chú, từng ngọt ngào thân thiện, được chúng nó giúp đỡ về kỷ thuật vi tính, học hỏi lịch sử và đạo đức dân tộc mà sách giáo khoa không đề cập hết, giờ đây đối xử với chúng nó như kẻ thù xa lạ.Hơn một tuần trôi qua, anh em chúng nó chưa biết phải đi đâu, bố mẹ chúng bảo cứ việc ở đó, thong thả giải quyết, vì mình không phải ăn nhờ ở bám. Cơn mưa đầu mùa như trút cơn giận, vườn tược ngả đổ cây cối, bầu trời xám xịt như vừa quét một lớp sơn màu gam tối, anh em chúng ngồi dồn vào một góc, tránh cơn thịnh nộ của những đứa em con chú đang hùng hổ ném đồ của anh em chúng nó xuống sân, mắng chửi tục tĩu vào mặt chúng nó: - Mặt mo chúng mầy lì lợm, muốn chiếm gia sản nầy ư?không dễ đâu, bà con xóm làng không ai ưa chúng mầy thì làm sao bố mẹ tao chấp nhận chúng mầy…một thằng nhảy vào nắm tay lôi anh em chúng nó như muốn hành hung thách đố, đứa khác lại can ngăn, nhưng bọn chúng cũng tặng được một quả thu lôi vào mặt thằng em chúng nó. Chúng đập vỡ đồ đạt, nồi niêu soong chảo bẹp dúm, điện nước tắt nguồn, chúng mở toang cửa cho mưa tạt vào đầy phòng. Thế mà anh em chúng nó ngồi co ro không phản ứng, không buồn phiền như kẻ vô sự.

Một tuần trôi qua, chú thím nó không nghe sự phản ứng từ bên kia đại dương, không ai hậu thuẩn yểm trợ anh em bọn chúng, nhưng cũng chẳng biết phải xử lý thế nào trước thái độ an nhiên tọa thị của bọn trẻ lạ lùng như thế. Ông Tư lối xóm theo dỏi kỷ cuộc xô xát đơn phương không kết quả, bèn mời chú thím nó qua nhà bàn mưu tính kế.

- Dẫu cho bố mẹ chúng nó bỏ vào đây bạc tỷ, cũng là nhà của anh chị, tài sản của con cái anh chị, chúng nó phải ra đi tay không vì không có giấy tờ chứng minh sở hữu chủ bất động sản. Chúng ở càng lâu thì anh chị càng khó giải quyết, nếu nể tình ruột thịt không mạnh tay, hãy để bà con chúng tôi giúp đỡ, chi phí đó anh chị phải chịu, có đáng là bao so với tài sản của anh chị và sự phiền phức đang bủa vây gia đình anh chị, nếu ông bà không nghe tui thì hậu quả thế nào, đừng cầu cứu bọn tui.

Vừa mệt mỏi, vừa bị chòm xóm làm áp lực tâm lý, lỡ phóng lao phải theo lao. Chú thím chúng nó giao phó giải quyết nội bộ cho ông Tư. Một số bà con ở xa hay chuyện, tỏ ra bất mãn chú thím chúng nó, nhưng chú nó tự nhủ: bán bà con xa mua láng giềng gần.
*
* *
Gà vừa gáy canh tư, tiếng chó đầu xóm vang dậy, trời vẫn còn lất phất mưa bụi; dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn ngoài sân, anh em chúng nó nhìn xuống, thấy đông người lao nhao, tay dao tay gậy đang chờ lệnh tấn công.
*
* *
Nhà ông Sáu tuy chật hẹp, nhưng anh em chúng nó vẫn vui vẻ sống tạm. Bà Sáu nói với chồng, người ta bị hất hủi, cùng đồng bào ruột thịt sao mình không biết thương nhau. Nâng đỡ kẻ hoạn nạn là đạo lý của dân tộc, mình không vì bố mẹ chúng là Việt kiều mà vì chúng là lũ trẻ vô tội, ngoan hiền mà trẻ con ngày nay ít được như thế. Tiếng gõ cửa dồn dập, tuy chưa đến 8 giờ tối mà thị trấn lặng chìm vào bóng đêm, lâu lắm, nhà ông Sáu chưa bị ai làm phiền về đêm như thế. Bà Sáu rón rén mở cửa: Chào anh Tư, đi đâu mà đêm hôm thế nầy.? – Tôi báo cho anh chị biết, chứa chấp lũ trẻ nầy có nghĩa là bỉ mặt chúng tôi, nhất là chú thím nó. Ruột thịt chúng nó không chứa, anh chị phải biết lý do thế nào rồi, anh chị có dụng ý nào mà chứa chúng nó.Chúng nó cư trú không hợp pháp, anh chị biết chứ!Nếu xẩy ra chuyện bất trắc nào, anh chị chịu trách nhiệm trước pháp luật.Để chúng ở đây có ngày chúng cướp nhà anh chị. Chị Sáu đáp:– Nhưng đêm hôm mưa gió thế nầy, đuổi chúng nó đi đâu, phải cho chúng nó thời gian để tìm chỗ, giải quyết có tình có lý chứ sao lại khăng khăng như vậy?-Ông Tư cứng rắn bảo: -tôi báo cho anh chị biết, không quá ba ngày, chúng tôi không muốn thấy chúng nó ở trong thị trấn nầy.
*
* *
Anh em chúng nó đáp chuyến xe sớm về vùng kinh tế mới, người quen mà ngày xưa có lần bố mẹ đưa đến giới thiệu.Khu đất rộng thoáng, lúp xúp những cây khoai mì, những luống khoai lang vàng vọt lá giữa rừng hoang nắng hóc, thế mà anh em chúng cảm thấy sung sướng như uống được ngụm nước mát giữa trưa hè. Căn nhà tranh nằm giữa khu đất trống, xa xa là cánh rừng chưa khai phá. Tiếng chim và cây lá xào xạc gió như xua tan mọi biến cố vừa qua. Cảnh trí tĩnh lặng quá, anh em chúng nó đi lại, nói năng khẽ khàng như sợ làm giao động không gian. Chúng mót củi ngoài rừng về đun nồi khoai mì. Ông chủ nhà ra chợ, cách nhà hơn 2km mua ít đồ cần dùng về cúng giao thừa. Vợ và con ông mất hơn hai năm sau khi bị sốt rét rừng; anh em chúng nó về tạm cư cũng là lúc ông cảm nhận được sự ấm cúng của năm cùng tháng tận, ông vui lắm, nhiệt tình giúp đỡ nhưng nhà chẳng có gì đáng để đãi khách.Phố chợ nhộn nhịp đã mang sinh khí tết về sớm hơn; người người tay quà, tay bánh chuẩn bị sắc màu cho ba ngày Xuân. Riêng ông, cảm thấy tủi thân, đơn độc khi cầm nhánh hoa và bịch muối lạc lỏng giữa chợ đời bon chen khoe sắc; nhưng chắc chắn ông sẽ vui hơn khi dang tay giúp đỡ những mãnh đời cơ nhỡ như anh em chúng nó.

Trời bắt đầu tắt nắng, ông vừa về tới, con chó cỏ chạy ra ríu rít mừng. Anh em chúng nó dọn khoai lên tấm gỗ kê bốn cục gạch làm bàn, để trước sân nhà. Trên bàn Thiên bắt đầu vờn khói từ cây nhang bổi. Ông và anh em chúng ngồi nhìn bầu trời đen nhấp nháy sao. Chúng kể cho ông nghe sự cố vừa qua, ông chép miệng: sao ruột thịt đối xử với nhau tàn tệ thế, họ chưa đến nỗi đói nghèo mà!

*
* *
Chú thím và bầy em con chú làm tiệc ăn mừng, tạ ơn ông Tư, nhưng bà con lối xóm hiểu chuyện lại nhìn họ bằng cặp mắt lạnh lùng mất thiện cảm. Gặp mặt nhau họ thường lãng tránh, không vồn vả chào hỏi như xưa. Họ không giàu bằng chú thím nó nhưng họ kinh tởm sự giàu sang như thế. Thiên hạ bàn tán xôn xao về việc chiếm của đuổi ruột thịt. Ông Tư phân trần: Đó là chuyện nội bộ gia đình của ông bà ấy, chúng tôi chỉ giúp đỡ vì tình làng nghĩa xóm để ổn định địa phương đón Xuân được bình an thôi.

Nhạc Xuân rộn rã khắp nơi; gia đình đã thắp nhan trước bàn thờ tổ tiên, chú của chúng nó cảm thấy hổ thẹn khi đứng trước vong ảnh của ông bà nội bầy trẻ; ông vừa cắm cây nhang,lâm râm tạ tội: Bố mẹ hiểu cho con, không phải con muốn những đứa cháu của bố mẹ và anh em của con phải chia lìa cốt nhục, do bước đầu vụng tính vì tự ái, bị kẻ ngoài xúi dục. Con đâu nghĩ sự thể đưa đến hậu quả đoạn tình máu mủ như thế; gia tộc ta ngàn đời trên dưới một lòng, chưa bao giờ xâu xé nhau, giờ đây con không còn mặt mũi nào nhìn bà con, ngay cả người dưng cũng kinh tởm biếm nhẽ. Nơi cao thiêng, cha mẹ tha thứ cho con…
*
* *
Lời chúc Xuân đón giao thừa của lãnh đạo nhà nước vang vọng từ chiếc TV, lấn át cả tiếng khấn của ông ta. Gia Đình cứ ngỡ ông đang cáo tế Thổ địa về sự thành công vừa rồi để gom lại tài sản về một mối. Bây giờ ông ta mới cảm nhận được nỗi trơ trọi mất mát lớn hơn cái sợ mất mát về tài sản. Cơ ngơi mênh mông đã vắng tiếng cười. Xuân năm nay, gia đình không rộn ràng đông đảo như những năm qua. Bốn đứa cháu có được mùa Xuân hạnh phúc như xưa? Chả lẽ người dưng lại tốt bụng chứa chúng nó trong những giờ phút giao hòa của đất trời!!!

Bên ngoài, một con chim lẻ loi kêu sương giữa vòm trời đen tối, vừa bay qua.

MINH MẪN
06/01/10
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4934)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5075)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4429)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4089)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4688)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4150)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3594)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6875)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6950)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5046)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]