Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khái Niệm Về "Tám Mối Lo Toan Thế Tục" Trong Phật Giáo

20/11/201008:15(Xem: 8499)
Khái Niệm Về "Tám Mối Lo Toan Thế Tục" Trong Phật Giáo

KHÁI NIỆM VỀ
"TÁM MỐI LO TOAN THẾ TỤC"
TRONG PHẬT GIÁO

Hoang Phong


losoKhái niệm về "Tám mối lo toan thế tục" tiếng Phạnlà "Astalokadharma",tương đối ít thấy đề cập trong Phậtgiáo Trung hoa, Việt Nam, Triều tiên và Nhật bản, nhưng thường được triển khai trongPhật giáo Ấn độ và Tây tạng. Vậy "Támmối lo toan thế tục" là gì ? Đó là những tình huống, những mối bận tâmvà lo lắng làm xao lãng tâm thức và sự sinh hoạt của người tu tập. Những mối bậntâm đó được phân chia thành bốn cặp :

- Mong ước được lợi lộc (labha) - lo sợ bị thua thiệt (alabha)
- Mong ước được lạc thú (sukha) - lo sợ khổ đau (duhkha)
- Mong ước được lừng danh, vinh quang (yasa) - lo sợ bị thất sủng, ghét bỏ(ayasa)
- Mong ước được ngợi khen (prasamsa) - lo sợ bị quở phạt(ninda)

Tóm lại đấy là tám mối bận tâm chi phối mọi sinh hoạt củacon người trong xã hội, thể hiện bằng hai thái độ : mong ướclo sợ.Sự vận hành thật phức tạp của tâm thức tạo ra vô số tư duy và đủ loại xúc cảm,thế nhưng nếu phân tích kỹ lưỡng thì đơn giản chỉ có hai tâm trạng đối nghịchnhau : hoặc hân hoan, ước mơ, chờ đợi hoặc khổ đau, lo âu, sợ sệt... Cả hai tìnhhuống này đều mang lại những xúc cảm ít nhiều bấn loạn. Thể dạng trung hòa củatâm thức thật hết sức hiếm hoi. Có thể xem hai thể dạng trên đây tượng trưngcho hai thái cực của xúc cảm trong tâm thức, chúng vừa liên kết lại vừa đối nghịchvới nhau.

Tâm thức thường xuyên vận hành dưới một trong hai thể dạngtương quan với hai tâm trạng mong ướclo sợphát sinh từ bản năng. Nếu mộtcá thể bị chi phối bởi tâm trạng mong ướcnhững điều tốt đẹp thì tâm thức có vẻ như tích cực, ngược lại nếu cá thể rơi vàosự lo sợ triền miên của thua thiệt, khổ đau, ghét bỏ... tâm thức sẽ mang tính cáchtiêu cực và bấn loạn nhiều hơn. Thật ra sự vận hành và sinh hoạt của tâm thức phứctạp hơn nhiều, rất khó phân định minh bạch và dứt khoát hai tâm trạng trên đây,lý do vì lục giác (gồm năm giác cảm và tri thức) luôn xen vào sự vận hành củatâm thức che lấp hai thể dạng trên đây. Hơn nữa còn có sự tham gia của nghiệp tácđộng vào sự cảm nhận của lục giác làm phát sinh những xung năng khác nhau. Dù chưaquen phân tích sự sinh hoạt của tâm thức chúng ta vẫn có thể hình dung ra hai xuhướng luôn chi phối mình là mong ướclo sợ.

Hãy chọn một thí dụ đơn giản, chẳng hạn các mối lo toannhư "mong ước được lợi lộc và lo sợ bịmất mát" thúc đẩy chúng ta "mong ước" thu góp và tích lũy của cải để trở thành sở hữuchủ và sau đó chúng ta "lo sợ" củacải ấy sẽ bị mất đi. Thí dụ ta mong ước có một chiếc xe đạp để đi làm. Thế nhưngkhi đã có xe đạp thì ta lại mong ước tậu được xe gắn máy hay xe hơi, sự mong ướccứ thế tăng dần... Trong khi sử dụng xe đi làm hay đi mua sắm ta khóa xe cẩn thậnhay gởi xe ở bên đường, thế nhưng ta vẫn cứ áy náy sợ mất. Trong sở ta phải làmviệc, nơi cửa hàng ta mải mê chọn lựa hàng hóa, thế nhưng sự lo sợ mất xe vẫn tiềmtàng trong trí, mặc dù ta không trực tiếp nghĩ đến... Trên đường về nhà ta thấycác chiếc xe đẹp hơn, to hơn, tuy phải chú tâm vào việc lái xe nhưng sự thèm muốnvẫn tác động trong tâm thức... Nếu suy luận rộng thêm ta sẽ nhận thấy vô số cácmối lo toan liên quan đến tiền bạc, nhà cửa, hạnh phúc, danh vọng, sắc đẹp, ngườiyêu, kẻ ghét, bệnh tật, ngợi khen, ganh tị ...thường xuyên nổi lên trong đầu, chúngdồn dập hiển hiện chi phối và đày đọa ta. Ý thức được tám mối lo toan thế tụccó nghĩa là ý thức được tâm thức ta lúc nàocũng bị tràn ngập bởi những xúc cảm đủ loại, tu tập tức là làm lắng xuống nhữngxúc cảm đó.

Vì những lý do trên đây nên Đức Phật khuyên người tu tập nênchọn lối sống khất thực. Thế nhưng trong cuộc sống dồn dập và xô bồ của xã hộitân tiến ngày nay, "tám mối lo toan thếtục" trở nên phức tạp và tinh vi gấp bội so với lối sống giản dị và đơnsơ của con người từ hàng nghìn năm trước. Việc khất thực và sống bên lề xã hộitrở thành gần như không tưởng hay ít ra cũng mất đi ít nhiều tính cách lý tưởngvà cao đẹp của nó. Thật vậy chẳng lẽ chúng ta lại chọn cuộc sống của những ngườiăn mày vô gia cư (clochard - tramp, homeless) tại các thành phố Tây phương ngàynay ? Đấy là một tệ trạng không giải quyết được của các xã hội phương Tây. Ngượclại trên một bình diện khác và một thái cực khác, hành vi vướng mắc trong tám mối lo toan thế tụccủa một số ngườixuất gia cũng có thể làm cho chúng ta khiếp sợ không kém.

Thế nhưng may mắn thay, dường như Đức Phật lúc nào cũng cósẵn cho chúng ta những liều thuốc hóa giải. Thật vậy trong đời sống thường nhậtrất khó cho chúng ta vượt khỏi tám mối lotoan thế tục vì những ước monglo sợluôn ám ảnh chúng ta. Ta không thểlàm gì khác hơn vì sự vận hành đó trong tâm thức là những gì thật tự nhiên, liênquan đến căn nghiệp và bản năng của chính mình, do đó ta đành phải chấp nhận tácđộng của những xúc cảm ấy nhưng hãy đảo ngược đối tượng của chúng. Thay vì ước monglợi lộc, lạc thú, vinh quang vàngợi khen cho riêng mìnhthì ta hãy ướcmong tất cả chúng sinh đạt được những điều tốt đẹp ấy. Thay vì lo sợ bị mất mát, khổ đau, ghét bỏ và quởphạt, ta quên mình và cầu mong cho tất cảchúngsinh tránh được những cảnh huống đọa đày này. Đấy là lòng từ bi vô biênmà Đức Phật luôn nhắc nhở chúng ta hãy mang ra sử dụng như một liều thuốc hóagiải những vướng mắc của ích kỷ và những lo toan của thế tục.

Để thay cho lời kết chúng ta hãy đọcmột giai thoại về đại thi hào Tô Đông Pha (SuDongpo, 1037 - 1101). Tên là Tô Thức, tự Tử Chiêm, bút hiệu Đông Pha cư sĩ,ông là một người tu hành uyên thâm, một thi nhân, họa sĩ và nhà thư pháp nổidanh thời nhà Tống. Ông có làm một bài thơ tán tụng Đức Phật rất nổi tiếng nhưsau :

Khể thủ Thiên trung thiên,
Hào quang chiếu đại thiên.
Bát phong xuy bất động,
Đoan tọa tử kim liên.

Tạm dịch như sau :

Quỳ lạy vị Trời ở giữa trời,
Hào quang chiếu rọi khắp muôn nơi.
"Tám gió" tung hoành không lay động,
Tòa sen vàng tía, lặng im ngồi.

Khể thủ là mọpđầu xuống đất, Vị Trời ở giữa trờingụý là Đức Phật, "tám ngọn gió"tượng trưng cho "tám mối lo toan thếtục", tử kimcó nghĩa là màuvàng sắc tím.

Tô Đông Pha làm bài thơ trên đây trong bối cảnh nào ? Ônglàm quan dưới triều Tống Thần Tông, theo đạo Phật, rất từ bi và yêu thương dânchúng. Ông đứng về phe "bảo thủ" do Tư Mã Quang (Sima Guang) cầm đầu chống lại các biện pháp canh tân của thừa tướngVương An Thạch (Wang Ashi), lý do ôngnhận thấy các biện pháp cải cách của Vương An Thạch quá cực đoan làm nhân dân tathán vì không theo kịp. Tô Đông Pha bị người nhà của Vương An Thạch dèm pha khiếnông bị giáng chức và đày đi Hàng Châu. Thời bấy giờ Hàng Châu mang tên là huyệnTây An, một thị trấn nhỏ bên bờ phía bắc của dòng Trường giang mênh mông. Trongthời gian này ông kết thân với một vị đại thiền sư là Phật Ấn (Foyin) trụ trì ngôi chùa Kim Sơn (Jinshan) tọa lạc trên bờ phía nam. Hai ôngthường cùng nhau du ngoạn trên sông đàm đạo Phật Pháp và thi phú. Tô Đông Pha làmbài thơ trên đây trong khoảng thời gian này. Ông rất tâm đắc khi làm xong bàithơ, vỗ đùi và ngâm đi ngâm lại suốt mấy hôm. Sau đó ông sai người nhà lấy thuyềnđưa tên tiểu đồng vượt sang bên kia sông tìm đến chùa Kim Sơn đưa bài thơ chothiền sư Phật Ấn xem. Sau khi tên tiểu đồng ra đi với bài thơ, bên này sông ôngthấp thỏm đợi nó quay về với những lời ngợi khen của Phật Ấn.

Thế nhưng khi vừa xem xong bài thơ Phật Ấn lấy bút phê ngaybên dưới hai chữ : "Fang pi!", có nghĩa là "Đồ đánh rắm !".Các bản Việt dịch xưa nay luôn tránh né hai chữ "fang pi" và dịch trại ra là "phóng thi' " hay "lỡtrôn". Nghĩ cũng lạ, chữ nào mà chẳng như nhau, dơ sạch là trong đầu củata, chữ nghĩa nào có tội tình gì. Các tư liệu bằng ngôn ngữ Tây phương về giaithoại này dịch chữ "pi" rấttừ chương và sát nghĩa (pet - fart). Dầu sao thì cũng xin tạ lỗi với người đọcvì đã nêu lên các chữ quá "thô tục" trên đây, không thích hợp với nộidung của bài viết. Tính cách bộc trực trên đây biết đâu cũng là những gì đặc thùnơi tính khí người Trung hoa nói chung và Thiền học nói riêng, nhất là đối vớihọc phái Lâm tế. Các vị thầy thuộc học phái này đôi khi dùng những ngôn từ rấtnặng nề, kể cả sử dụng roi gậy trong mục đích giúp người đệ tử thức tỉnh.

Trở lại với bài thơ của Tô Đông Pha. Ông thấp thỏm trôngngóng tên tiểu đồng từ bên kia sông trở về mang theo những lời tán dương của PhậtẤn. Thế nhưng khi mở tờ thư pháp ra và thấy bút tích của Phật Ấn phê hai chữ"fang pi" bên dưới bài thơ,Tô Đông Pha đùng đùng nổi giận, đích thân xuống thuyền căng buồm băng ngang sôngđể tìm Phật Ấn. Phật Ấn biết trước nên đóng cổng chùa và trốn biệt, vì dù sao ôngcũng hiểu Tô Đông Pha là một vị quan có chút quyền uy. Tô Đông Pha mò lên chùathấy vắng tanh, cửa cổng có viết dòng chữ như sau :

Tám ngọn gió khônglay chuyển được mi

[Thế nhưng] một cáiđánh rắm cũng đủ để thổi mi sang đến bờ bên này.

Ấythế, những người tu tập vẫn cứ tưởng mình đã siêu thoát, vậy mà trên thực tế tám mối lo toan của thế tụcvẫn trói buộcmình thật chặt. Tô Đông Pha sau khi làm xong bài thơ thì rất đắc chí, mong đợi sự vinh quang sẽ đến, lo âu và hồi hộp ước mong nhận được những lờikhen thưởngvà sau đó thì khổ đau và tứcgiận khi bị khinh miệt ...

Dù sao Tô Đông Pha cũng là một người tu tập, cũng hiểu đượcĐạo Pháp là gì, vì thế ông đứng ngẩn người trước cổng chùa Kim Sơn một lúc lâuvà hiểu được bài thơ của ông chỉ là những gì phản ảnh cái tôi của chính mình, cái tâm trạng thua thiệt của một người bịthất sủng, muốn tìm một lý do để bào chữa sự mất mát ấy. Qua hình ảnh của ĐứcPhật ông tự cho mình là người khinh bỉ lợi danh, "tám ngọn gió" không lay chuyển được ông, thế nhưng lời phê củaPhật Ấn đã xoáy sâu vào tâm thức giúp ông ý thức được tám mối lo toan của thếtụcvẫn còn đang hoành hành trong tâm thức mình. Hóa ra cái rắm của thiền sư Phật Ấnđã khiến cho ông tỉnh ngộ.

Bures-Sur-Yvette, 19.11.10

Hoang Phong

todongphatongthantong

Tô Đông Pha (1037-1101) Tống Thần Tông (trị vì 1067-1085)

tumaquangvuonganthach

Tư Mã Quang (1019-1086) Vương An Thạch (1021-1086)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/09/2020(Xem: 5758)
Trước, lúc mà Cạp mỗ ngẫu hứng chĩa một ngón tay vào ngoáy rốn pho tượng ngài Bố Đại Hòa Thượng (được cho là hóa thân của đức Di Lặc Tôn Phật) ở một ngôi chùa miền quê thanh vắng, để cho người bạn chụp ảnh lưu niệm, xem lại ngay trên máy, liền bật cười và quất ngay mấy câu lục bát: Ta cười suốt tháng quanh năm Cười ba vạn kiếp số hằng hà sa Cù léc rốn, xức cù là? Dụng công chi rứa bởi ta vốn cười!
04/09/2020(Xem: 6500)
' Cha là Phật giữa đường trần Mẹ là Phật giữa vạn lần ngược xuôi.. Đêm đêm thắp ngọn đèn trời Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con..''
04/09/2020(Xem: 6532)
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật! Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni! Kính thưa quý vị Phật tử! Nhân mùa Vu-lan năm 2020, con xin đảnh lễ, kính chúc chư Tôn đức Tăng Ni thêm một tuổi đạo, thành công hơn nữa trong các Phật sự, nhằm mang lại lợi ích và phúc lạc cho nhân sinh. Con kính chúc các bậc làm cha mẹ thêm một tuổi đời, làm nền tảng đạo đức và hạnh phúc cho con cháu trong gia đình và họ tộc. Con kính chúc tất cả các anh chị, các cháu thanh thiếu niên, đề cao đạo lý hiếu kính cha mẹ ông bà, thể hiện tinh thần tự lập, xa lánh các thói hư tật xấu, các thói quen nghiện ngập, hưởng thụ ăn chơi, để sống một cuộc đời hữu ích, và làm cho cha mẹ được hạnh phúc hiện tiền. Nhờ đó, có một tương lai tươi sáng.
04/09/2020(Xem: 8345)
Mật hạnh là pháp môn bất nhị tăng thêm phẩm hạnh, viên mãn đạo đức. Ví như ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh của Đức Phật; mỗi ngày cầm bình bát khất thực, rửa chân ngồi thiền, hành hóa thuyết pháp, khiến chúng sinh nhập Phật tri kiến, chính là mật hạnh; lại ví như La-hầu-la (Rāhula) sám hối sửa lỗi, giữ vững thanh tịnh giới hạnh, trở thành đệ nhất mật hạnh trong đệ tử Phật; Đại Ca-diếp trú ở xứ Lan-nhã, tịch tịnh thiểu dục, trên hội Linh Sơn1 diệu khế chân như pháp tính, cũng là mật hạnh; Tu-bồ-đề (Subhūti) quán không nghênh Phật, cũng là mật hạnh. Những việc làm nghĩa tình của người xưa như chia cháo cứu đói, xây cầu làm đường, đào giếng lấy nước, thắp đèn dâng trà, bố thí quan tài cho người chết, cứu trợ giúp đỡ, đều là mật hạnh gieo trồng phước đức. Gọi là “lân nga bất điểm đăng, vi thử thường lưu phạn” (vì thương những con thiêu thân không đốt đèn vào ban đêm, vì sợ chuột không có thức ăn thường để lại một ít thức ăn), tức là khắc họa (miêu tả) tốt nhất về lòng từ bi rộng khắ
02/09/2020(Xem: 6369)
Á hậu Trương Thị May lễ chùa, phóng sinh mùa Vu lan Chị em Á hậu Trương Thị May cùng mẹ và bà ngoại mặc đồ lam, áo dài đi lễ chùa, phóng sinh dịp Vu Lan.
02/09/2020(Xem: 6945)
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã phát ngôn kiên quyết kêu gọi về việc “Hán hóa” (Sinicization,漢化) Phật giáo Tây Tạng. Ảnh: hindustantimes.com Theo truyền thông quốc gia Trung Hoa đưa tin hôm thứ Bảy, ngày 29 tháng 8 vừa qua, Ngài Chủ tịch Tập Cận Bình đã phát ngôn kiên quyết kêu gọi về việc “Hán hóa” (Sinicization,漢化) Phật giáo Tây Tạng tại Tây Tạng.
30/08/2020(Xem: 7219)
Tựa bài không có gì mời gọi người đọc, nên có lẽ, chỉ vị nào đang rảnh rang lắm mới thử lướt xuống xem, viết cái gì vậy? Hay chỉ là thực đơn của tiệm bánh nào bay lạc vào? Xin nghiêm túc thưa, đây là lời mở đầu một lần giảng pháp của giảng sư, trong một mùa An Cư Kiết Hạ tại Nam Cali.
30/08/2020(Xem: 7581)
Ngày xưa, sau khi Đức Phật chứng Đạo, tại sao Ngài không mở trường Thiền để có thể dạy hàng ngàn, hàng vạn người cùng một lúc? Ngược lại, Ngài chỉ vân du từ nơi này sang nơi khác, tùy căn cơ khai thị cho những người hữu duyên Ngài gặp trên đường? Đơn giản vì trình độ, hoàn cảnh và cơ địa mỗi người một khác, nên đức Phật ngay nơi mỗi người khai thị pháp mà người đó đang trải nghiệm, và vì vậy chỉ người đó mới thật sự biết đức Phật đang chỉ dạy điều gì, người khác có nghe hay đọc lại kinh điển tường thuật thì cũng chỉ để tham khảo hay suy luận mà thôi.
30/08/2020(Xem: 6693)
Khúc đàn Khổng-Vọng-Vi là tiếng khóc của Đức Khổng Tử, tiếc thương người đệ tử thân yêu Nhan Hồi, mệnh yểu mà chết sớm khi tuổi còn thanh xuân. Tiếng khóc bộc lộ tình thầy trò cực kỳ thắm thiết, cực kỳ cảm động đó đã chạm vào những giây tơ mà bật lên âm thanh, truyền cảm tới thẳm sâu tâm linh hậu thế.
29/08/2020(Xem: 7221)
Có một truyền thuyết kỳ lạ, nhưng có lẽ ít được biết đến bởi người Mông Cổ về một con voi xanh, đã góp phần xây dựng một Bảo tháp Phật giáo khổng lồ tại Ấn Độ cổ đại. Con voi lao động cả đời để xây dựng công trình Phật giáo, nó làm việc đến kiệt sức. Tuy nhiên, những nỗ lực của nó vẫn bị bỏ qua, và ngay cả vị Lạt Ma cấp cao đến cúng dường Bảo tháp cũng quên cảm ơn nó. Con voi vô cùng tức giận và phát lời thề rằng, sẽ phá hủy Phật giáo ba lần trong những lần tái sinh sau đó của nó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]