Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôi và Mẹ

22/08/201019:57(Xem: 7759)
Tôi và Mẹ
tuyentapvulan-03
TÔI VÀ MẸ

Thích Tâm Mãn

Khi có mặt trên cuộc đời này, tiếng gọi đầu tiên mà ta gọi đó là Mẹ, tình thương mà ta cảm nhận được trước nhất là tình của Mẹ, hơi ấm nồng nàn làm cho ta cảm thấy không lạnh lẽo giữa cuộc đời được toả ra từ lòng Mẹ, âm thanh mà ta nhận được khi chào đời là hai tiếng “con yêu” chất liệu nuôi lớn ta ngọt ngào dòng sữa mẹ như cam lộ thiên thần dâng cúng Phạm Thiên.

Mẹ những gì mẹ có và quí nhất đều dành trọn cho con, và con là mầm sống là ý nghĩa mục đích là sự cống hiến cao cả nhất của mẹ dành cho cuộc đời. Cuộc sống này được tiếp nối tương tục, thăng hoa muôn màu muôn sắc nếu không có sự cống hiến vĩ đại của Mẹ thì thế giới này không có hiện tại và tương lai.

Mẹ tôi chỉ là tiếng gọi vì trong ký ức nhỏ bé của tôi, hầu như không cách nào để tìm nhận ra mẹ dù đã bao lần tôi ước ao tìm về nẻo ấm tình thương, ngọn nguồn của cảm nhận thương nhớ. Mẹ tôi đi xa khi tôi vừa được hai tuổi, cái tuổi của ăn, tuổi của ngủ, tuổi của dại khờ, chưa khôn lớn chẳng biết chi.

Cho nên khi đủ khôn để nhận biết thì hình ảnh của mẹ hiền ở trong tôi chỉ là con số không, ngay cả khuôn mặt của mẹ mình như thế nào tôi cố tìm đến tận cùng của ý thức thứ bảy, chỉ là một điểm thật mờ của quá khứ cộng với hình ảnh mô tả qua nhiều lời kể về mẹ của những người thân. Mẹ trong ký ức của tôi là như thế.

Mẹ tôi tìm trong ký ức làm tôi cảm thấy sót xa, tôi sót xa cho mình sao sớm thiếu vắng chất liệu ngọt ngào của cuộc sống, tình thương yêu nhân bản của một kiếp người và hơi ấm nồng nàn của sự lớn khôn lớn và quan trọng hơn hết là bến đỗ vững chắc của cuộc đời khi buồn vui hay vấp ngã. Chính vì tất cả những gì là Mẹ đối với tôi chỉ còn là ký ức, tạo cho tôi một động lực một ý chí đi tìm về người Mẹ của từ bi của trí tuệ bao hàm thể tánh viên thông.

Sáu tuổi vào chùa làm chú tiểu, tôi luôn tin rằng mẹ lúc nào cũng ở quanh tôi, vì lúc nào ông tôi cũng nói như vậy. Ông tôi còn dạy cha mẹ nào có con đi tu làm nhiều công đức thì sẽ được phước báo hay siêu sanh về Tịnh Độ.

Không biết từ lúc nào tâm niệm của tôi cứ như luôn nhớ về mẹ và cứ muốn làm thật nhiều điều lành để hồi hướng về cho mẹ thân yêu. Năm tôi lên mười khi nghe nói rằng tụng kinh Địa Tạng có thể cầu siêu cho người đã khuất, năm đó tôi đã xin ông tôi cho tôi tụng kinh để cầu nguyện cho mẹ và thú thật cho đến bây giờ khi nghĩ lại ngày ấy tụng kinh Địa Tạng tôi tụng cứ như là đọc thần chú hoàn toàn không hiểu trong Kinh dạy những gì, lắm khi còn phải dừng lại để đánh vần vì quá nhiều chử tôi đọc chưa thông, và cứ như thế tuổi thơ của tôi trôi qua với sự đùm bọc và thương yêu của mẹ tôi mặc dầu chỉ là ký ức và tưởng tượng.

Mẹ tôi luôn ở bên tôi và tôi luôn cảm nhận như vậy vì khi gặp những gì khó khăn tôi luôn tin rằng có mẹ tôi phù hộ và gúp đỡ. Chính niềm tin mãnh lực này thôi thúc tôi vào Nam tu học. Quê hương tôi vùng núi cao xa tít, rừng núi bạt ngàn mà người đời thường gọi là xứ “khỉ ho cò gáy” ngày ấy Phật Pháp ở quê tôi còn rất hạn chế muốn học Phật thì đa số Tăng Ni đều phải vào tham học trong miền Nam, tôi xin ông tôi cho tôi đi học, Ông tôi cười và sau đó cũng cho tôi đi.

Ngày vào miền Nam Nội tôi may cho tôi hai bộ đồ vải tám, Ông tôi cho tôi một cái áo Nhật Bình củ để mặc đi đường và tiền đi xe, nói là có tiền xe nhưng thật ra chỉ đủ để ăn uống dọc đường, vì tôi đi nhờ xe tải của Phật tử gần chùa và hết bốn ngày đường tôi vào đến miền Nam.

Ngày ấy hành lý đi học của tôi chỉ là chừng ấy tôi vẫn không quên đem mẹ theo bên mình, Mẹ tôi chỉ là một bài vị nhỏ mà cho đến bây giờ khi bao năm tha phương cầu học ngày trở về mẹ vẫn ở bên tôi. Mẹ tôi đi với tôi vào Nam cho đến tôi học hết đại học, rồi mẹ cũng đi xuất ngoại và cùng tôi trở về khi tôi học hành đã xong. Tôi làm chùa, tôi làm tất cả những gì có công đức để hồi hướng cho Mẹ và nguyện cầu Mẹ sanh về cỏi Tây Thiên.

Mùa Vu Lan lại về với mưa thu lách tách, từng giọt gõ đều trên mái chùa xưa, ký ức về Mẹ nay đã thành chùa, tình thương của Mẹ đã nuôi lớn chí người tu sĩ, hơi ấm của Mẹ dựng xây con thành người hữu ích, con đã lớn lên trong tình thương của Mẹ, con trưởng thành trong ý niệm báo ân, Mẹ là tất cả với chuông chiều bảng sớm, với giọng điệu thăng trầm của tán tụng công phu, Mẹ là thiền định với tâm vô sở trước.

Mẹ là giới định của trí tánh viên minh, Mẹ là nhất tâm khi con ngồi niệm Phật, Mẹ là lòng từ khi vận chân tâm, Mẹ là vi trần sát hải, là trùng trùng duyên khởi của Pháp Giới Tỳ Lô. Mẹ trong con, con là con của Mẹ thể tánh viên mãn “khể thủ thiên trung thiên” Mẹ là bổn tôn con là hoá dụ cụ túc tinh thần “thanh tịnh, viên mãn, hoá thân” tất cả là một một là tất cả.

Mẹ tôi, Mẹ của xác thân nguyện thành thể tánh, Mẹ của thế tục nguyện hoá thành Quán Âm, Mẹ của trần duyên nguyện hoá thành Cam Lộ, Mẹ của thương nhiều nguyện thành từ bi. Vì chỉ như thế mới là mẹ của Đạo Phật và cũng chỉ như vậy mới thể hiện được hết tình mẹ thương con, thể tính đại bi trong cội nguồn cuộc sống, ý thức đại từ trong chất liệu Vu Lan. Vu Lan nhớ về Mẹ tâm như bừng sáng, ý thức báo ân như rạng rỡ muôn ngàn, nguyện cầu cho pháp giới “Mẹ Yêu” thể nhập vào “Tỳ Lô Tánh Hải”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2021(Xem: 5456)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6182)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6920)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5764)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5258)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5385)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5956)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 5137)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
24/12/2020(Xem: 4568)
Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.
21/12/2020(Xem: 7749)
Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]