Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Để việc đi cúng là hoằng pháp đúng nghĩa

17/07/201022:21(Xem: 9498)
Để việc đi cúng là hoằng pháp đúng nghĩa


phat_2 (13)
Phận làm người xuất gia, việc đi cúng dường như xuất hiện đồng thời với chí nguyện phụng Phật, độ sanh. Đi cúng là đi đến nhà cư sĩ, đơn giản thì để chứng minh, chú nguyện cho một sở cầu nào đó của họ. Phức tạp hơn là thực hiện một lễ nghi nào đó như cầu an, cầu siêu, an vị Phật hay cúng nhà mới v.v… Đi cúng là một hiện tượng mà xung quanh nó xuất hiện nhiều quan điểm, thái độ đánh giá. Với một vài vị xuất gia, việc đi cúng dường như không phải là trách vụ cơ bản của hàng xuất sĩ, và do vậy họ đã cực lực lên án, thậm chí là cười nhạo, đả phá. Trong khi đó có một số vị khác tận lực, và thậm chí chấp nhận buông bỏ việc tìm cầu tri thức, thời khóa tu tập … để toàn tâm đi cúng khắp nhân gian.

 

Người viết là một kẻ xuất gia nên ít nhiều có thể nhận ra những chuyện vui buồn, ái ố phát sinh từ hiện tượng phức tạp và sinh động này. Bàn về việc đi cúng, người viết mong mỏi góp phần xây dựng một thái độ ứng xử khả dĩ trước thực tế đã và đang xảy ra trong hiện tình sinh hoạt của Phật giáo, dù ở bất cứ thời đại nào.

Vài nét về lịch sử vấn đề

Nếu nương vào định nghĩa sơ khởi ở trên thì đức Phật là người đầu tiên đi cúng theo sự cầu thỉnh của hàng tại gia cư sĩ. Đó là một lễ cúng nhà mới theo cách hiểu hôm nay. Theo kinh Trung Bộ trong thời gian đức Phật về quê hương thăm thân quyến, các vị hoàng thân Sakya nhân vừa làm xong một ngôi nhà lớn đã cầu thỉnh đức Phật quang lâm chứng minh, sử dụng lần đầu để “Các vị Sakya ở Kapilavatthu sẽ hưởng hạnh phúc, an lạc lâu dài. Thế tôn im lặng nhận lời.” (1)

Từ sự kiện này có thể thấy sự gia tâm chú nguyện như đức Phật cũng được xem như là một dạng thức của khoa nghi cúng kiếng. Trong một trường hợp khác, khi biết bệnh tình khó qua khỏi, đại thí chủ Anathapindika đã cho gia nhân đến cầu thỉnh riêng ngài Sariputta quang lâm tư gia. (2) Trước bệnh tình của thí chủ Anathapindika, tôn giả Sariputta đã có một bài thuyết giảng về giáo nghĩa vô thường và nhờ đó, cộng với thiện nghiệp đã gieo, thí chủ đã được sanh thiên sau khi bỏ thân tứ đại. Xem ra, việc cầu thỉnh chư tăng đến nhà thực hiện một số pháp thức nghi lễ khi người thân mất có liên hệ sâu xa đến trường hợp này. Không những thế ngay một kẻ sát nhân như Angulimala, sau khi xuất gia, vẫn có thể cầu nguyện cho người sản phụ bình an khi sinh nở. (3)

Từ đây có thể thấy, việc đi đến tư gia của người cư sĩ thực hiện các chú nguyện, nghi lễ nhằm đem đến sự bình yên cho họ đã xuất hiện ngay trong thời đức Phật, dẫu rằng hình thức thực hiện nghi lễ giản đơn, không phức tạp rườm rà về hình thức.

Tùy theo không gian và lịch sử phát triển, Phật giáo tại mỗi khu vực có những sắc thái về nghi lễ khác nhau trong việc thực hiện các nghi quy cúng kiếng tại nhà cư sĩ. Ở Việt Nam do sự ảnh hưởng, giao thoa của nhiều luồng văn hóa, do sự du nhập và đồng hành của các hệ Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền, việc đáp ứng các nhu cầu tâm linh mà ở đây gọi là đi cúng cho người cư sĩ, cũng hết sức phong phú và sinh động.

Những khó khăn và thuận lợi từ hiện thực đi cúng

Với một khảo sát chưa đầy đủ, chúng tôi cho rằng bất cứ người xuất gia nào cũng từng đi cúng hoặc có những liên hệ đến việc cúng kiếng. Thực tiễn cho thấy việc đi cúng xuất phát từ nhiều lý do: Vì lòng bi mẫn, vì mong mỏi hóa độ người, do mong cầu người cư sĩ ủng hộ các điều kiện tu tập, kiến lập đạo tràng và thậm chí do mong cầu được thỏa mãn những sở dục cá nhân … Trong những sắc thái muôn màu từ hiện thực đi cúng, việc đi cúng vì lòng bi mẫn, vì mong hóa độ người là những lý do chính đáng.

Mặc dù xuất phát từ lý do chính đáng và đúng pháp, nhưng trong thực tế, người xuất gia đã đối diện không ít khó khăn khi đi cúng tại tư gia cư sĩ. Trước hết, để đủ sức đáp ứng nhu cầu tâm linh cho người cư sĩ mà ở đây là việc đi cúng, người xuất gia cần phải có sức khỏe tốt. Vì trong thực tiễn đi cúng, đôi khi người xuất gia phải di chuyển qua lại những nơi giao thông trở ngại, và trong một số trường hợp còn gặp phải sự bất tiện về quy định thời gian. Bệnh tật, hao tổn sức lực và tâm lực trong khi đi cúng, là thực tế được ghi nhận từ hàng xuất gia trong khi thực hiện hạnh nguyện này.

Thêm nữa, có những người tại gia chưa bao giờ biết đến Phật pháp, nhưng khi gia đình có việc thì mong người xuất gia đáp ứng các nhu cầu tâm linh. Điều đó không có gì sai. Tuy nhiên do hạn chế về nhận thức nói chung và về Phật giáo nói riêng, do sự huân tập , đan xen các tập tục tín ngưỡng truyền thống, niềm tin gia đình… nên đã yêu cầu người xuất gia đáp ứng các nhu cầu tinh thần không phù hợp với pháp Phật. Cụ thể, đã có những trường hợp người cư sĩ yêu cầu bậc xuất gia thực hiện các nghi lễ theo khuôn mẫu Nho gia. Đã có những trường hợp đòi hỏi người xuất gia đáp ứng các yêu cầu của họ như là trách nhiệm bắt buộc. Có những trường hợp họ xem người xuất gia thực hiện các nghi lễ tâm linh cũng giống như bao công việc bình thường, và thậm chí không khác biệt mấy so với những nghề thấp nhất trong mức thang giá trị xã hội. Đây chỉ là vài trong số những lý do làm cho người xuất gia sơ tâm ái ngại, và đòi hỏi những người chuyên thực hiện việc đi cúng phải kiên tâm và vững chải, khi trải nghiệm các cung bậc ứng xử trong đời.

Về phương diện hoằng hóa, việc đi cúng là tiền đề thuận lợi trong việc thực thi sứ mạng hoằng pháp của người xuất gia. Vì thực tế có những người chưa bao giờ biết kính Phật trọng tăng nhưng khi gia đình hữu sự, họ sẵn lòng thực hiện mọi hướng dẫn của chư Tăng, miễn sao người thân của họ được an lành. Đây là dịp thuận lợi để hướng họ quy ngưỡng Phật pháp. Trước hết, nếu là việc vui như khánh thành nhà mới, hôn sự … thì sự chứng minh và tác thành của chư Tăng có tác dụng khuyến hóa người cư sĩ cần tăng tiến hơn nữa trong thiện sự của mình. Ngoài việc thực hiện các khoa nghi cần thiết thì một thời giảng ngắn về phương thức mưu sinh đúng pháp, sống làm sao cho hợp đạo làm người, là những đề tài thích hợp trong trường hợp này. Nếu đó là việc hệ trọng như hiếu sự, tang nghi thì sự hiện hữu của người xuất gia, ngoài chức năng gia tâm cầu nguyện, còn có ý nghĩa quan trọng là chia sẻ, động viên khuyến tấn hương linh đã khuất cũng như người hiện còn những giá trị Phật lý căn bản.

Người xuất gia nên xem việc hóa độ chúng sanh là trọng trách. Khi người tại gia thỉnh cầu với bất cứ lý do gì thì cũng nên xem đó là duyên khởi để hàng xuất gia thực hiện chí nguyện của mình. Họ cầu thỉnh, tức đã mở cửa, vấn đề là làm sao cho căn nhà đó bừng sáng trong ánh sáng Phật pháp, là trách vụ quan thiết của hàng xuất gia.

Với truyền thống văn hóa ảnh hưởng khá nhiều yếu tố Phật giáo, người Việt khi hữu sự, mà nghĩa cụ thể được hiểu ở đây là việc tang, thường đến chùa cầu thỉnh chư Tăng thực hiện pháp sự. Đây là điều kiện thuận lợi để chư Tăng mở rộng khả năng giáo hóa của mình. Phải xem đó là vùng đất tuy không mới nhưng cần bàn tay chăm sóc của người xuất gia, để giao hạt trí tuệ và từ tâm. Cụ thể hơn, đi cúng để hóa độ người chứ không nên xem đó là dịp để mong người tạ ơn.

Những giải pháp gợi mở khi xem đi cúng cũng là hoằng pháp

Thứ nhất, cần phải nuôi dưỡng thường xuyên ý thức xem việc đi cúng là pháp phương tiện để đưa Phật pháp vào đời. Phương tiện vận dụng như thế nào là hợp lẽ, đó là điều người xuất gia cần phải suy tư, thẩm sát. Mặt khác, giữa phương tiện và cứu cánh có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, không thể tùy tiện vận dụng phương tiện lai tạp các yếu tố phi Phật giáo mà đòi hỏi cứu cánh tối thắng, an lành. Ở đây, trong khi thực hiện pháp cúng kiến, thì đừng nhân danh phương tiện để biện minh cho những lễ nghi tiêu tốn quá nhiều tài lực, tâm lực và thời gian của người cư sĩ. Biện sự nghi lễ của Phật giáo về cơ bản bao giờ cũng phù hợp với phong văn hóa của từng vùng, miền, dân tộc và điều kiện cụ thể của người cư sĩ.

Thứ hai, không yêu cầu đáp trả, không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì khi thực hiện nghi lễ cho người tại gia. Pháp phật là pháp thượng nhân, dùng pháp Phật để mong cầu sự thi ân đáp trả là điều không hợp lẽ. Có thể, do thói quen ứng xử văn hóa, người tại gia sẽ băn khoăn nếu như chư Tăng không chấp nhận sự tạ lễ sau khi một nghi lễ nào đó hoàn thành. Trong hoàn cảnh này, việc thọ nhận và chúc phúc cho hàng cư sĩ là việc cần làm. Tuy nhiên, đối với hàng tại gia thâm tín Tam bảo, thì cần phải trang bị cho họ ý thức phụng sự Tam bảo vượt thoát khỏi ý niệm đáp trả, đền ơn. Cúng dường trong tâm thế này được Phật tán thán, vì công đức luôn vượt lên trên mọi cúng phẩm bình thường khác.

Thứ ba, ngoài chư Tăng ra, trong một số bối cảnh, người Phật tử tại gia có thể góp phần thực hiện một số nghi lễ. Đó là một khóa tụng kinh, một thời hộ niệm, một sự bày biện đúng pháp cho một nghi lễ, đàn tràng. Sự phối hợp nhuần nguyễn giữa hàng xuất gia và Phật tử tại gia trong nghi quy cúng kiến là một minh chứng cho sự phát triển Phật giáo ở mọi thời kỳ. Với quỹ thời gian có hạn của một người xuất gia, với số lượng đông đảo cùng nhiều yêu cầu nghi lễ của cùng quần chúng tại gia, nếu như không có hàng Phật tử tại gia cùng gia tâm hỗ trợ trong một số nghi quy cần thiết, thì đôi khi người xuất gia không còn sức lực và thời gian để nghiên tầm kinh điển, để tự tu và chuyển hóa bản thân. Theo Phật, học Phật là để tự mình chuyển hóa, chứ không nên chỉ mong cầu nhỏ nhoi là được người xuất gia thực hiện tang lễ lúc cuối đời.

Thứ tư, căn cứ vào kinh điển, thì thời khắc trước khi lâm chung quan trọng gấp ngàn lần những nghi sự cúng kiến sau khi mất. (4) Cho nên việc hỗ trợ của hàng xuất gia cần tập trung vào thời khắc quan trọng này. Trong những hoàn cảnh bất khả, thì sự chia sẻ những kiến thức căn bản về giáo lý vô thường, quan điểm xả ly, không chấp thủ… là những trang bị cần thiết cho người hấp hối mà người tại gia có thể thay mặt hàng xuất gia góp phần thực hiện. Vì lẽ, trang bị tư lương Phật pháp, bất kể đó là thời điểm nào, không bị bó buộc trong giới hạn cư sĩ hay chư tăng.

Cuối cùng, cần phải hiểu rằng, cúng kiếng hay sự gia tâm chú nguyện là giải pháp không được Phật đánh giá cao. Hình ảnh nhận chìm hũ dầu xuống nước và đập vỡ nó ra, mảnh sành sẽ chìm xuống và dầu sẽ nổi lên dù được cầu nguyện bằng cách nào đi chăng nữa, là ẩn dụ sinh động về chuyện cúng kiếng được Phật dạy trong kinh Tương Ưng. (5) Cần nuôi dưỡng ý thức đó thường xuyên để có một cái nhìn thông thoáng hơn khi vận dụng nghi quy cúng kiến, phụng sự cho người.


1. Kinh Trung Bộ, kinh Hữu Học số 53.
2. Kinh Trung Bộ, tập 3, kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc, số 143.
3. Kinh Trung Bộ, tập 2, kinh Angulimala, số 86.
4. Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại phẩm, kinh Phagguna.
5. Kinh Tương Ưng, tập 4, Thiên sáu sứ, chương VIII, Tương ưng thôn trưởng, kinh Người đất phương tây hay người đã chết.

( Nguồn: NSGN số 198 )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/08/2021(Xem: 7125)
Tôi lúc nhỏ đi vào truy môn, ban đầu đọc tụng danh hiệu của 88 Đức Phật, trong lòng yên lắng, được điều chưa từng có! Nay tôi già rồi, mỗi khi xưng niệm danh hiệu, niềm hỷ lạc vẫn như xưa. Có điều tôi chưa xem xét [các danh hiệu ấy] xuất từ Kinh nào? Gần đây tôi tham cứu Đại tạng thì mới biết rằng 35 Đức Phật xuất từ Kinh Đại Bảo Tích, được trình bày rất rõ ràng xuyên suốt bản kinh. Người đương thời góp nhặt danh hiệu 88 Đức Phật, bỏ qua kinh văn, chỉ chép danh hiệu Phật là để giản tiện, nhưng người đọc sẽ không biết xuất xứ từ đâu.
23/08/2021(Xem: 4489)
Kính bạch Thầy hôm nay giỗ Mẹ , con tự khấn thầm sẽ học lại Trung bộ kinh mà trước đây đã học chưa trọn vẹn qua sách của HT Thích Minh Châu và Ni Sư Trí Hải chú giải thì may mắn làm sao con thấy online trọn bộ trên YouTube của Sư Sán Nhiên giảng tại Mỹ và được chú thích rõ ràng và ngay bài đầu tiên con đã thu thập và nhớ lại những gì đã học , kính xin phép Thầy cho con trình pháp xen kẻ với những pháp thoại của Thầy để cúng dường Pháp Bảo hầu kiếp sau có cơ hội tiến tu trên đường Đạo . Kính đảnh lễ Thầy, kính đa tạ và tri ân Thày, HH
20/08/2021(Xem: 5694)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm. Sen có nhiều loại và nhiều màu khác nhau, nhưng hai màu chính mà chúng ta thường thấy là hoa Sen màu hồng và hoa Sen màu trắng. Trong Kinh A Di Đà diễn tả về màu sắc của hoa Sen ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thì có cả hoa Sen màu xanh tỏa ra ánh sáng xanh, hoa Sen màu vàng tỏa ra ánh sáng vàng nữa; nghĩa là có nhiều màu sắc khác nhau khi hoa được trổ ra nơi cảnh giới giải thoát ấy.
20/08/2021(Xem: 6523)
Ai đã sống trải qua thời kỳ u ám thê lương của những năm đất nước đói nghèo với tên gọi "thời bao cấp", ắt hẳn thấm thía và nhận biết giá trị quý báu của chén cơm, manh áo. Nói không quá, "cơm trắng, áo đẹp" hầu như chỉ có trong... giấc mơ. Một xị dầu lửa, hay một cục xà bông để vừa giặt, vừa tắm, vừa gội đầu, cũng là những vật phẩm giá trị không phải muốn có lúc nào là được đâu.
19/08/2021(Xem: 6899)
Không sống với quá khứ, cũng không mơ tưởng tương lai. Hãy tập trung tâm thức vào giây phút hiện tại.
19/08/2021(Xem: 7811)
Phật Đản và Vu Lan là hai ngày lễ lớn nhất của Phật giáo trong năm. Riêng đối với tuổi trẻ thì Phật Đản là gốc rễ mà Vu Lan là hoa lá cành. Gốc rễ giữ cội nguồn và hoa lá cành làm giàu thêm vẻ đẹp. Phật Đản là ngày lễ trọng đại mừng Đức Phật Thích Ca ra đời. Vu Lan là ngày kỷ niệm Mục Kiền Liên tâm thành hiếu hạnh. Tích Mục Kiền Liên cứu mẹ đã trở thành biểu tưởng bái vọng của tinh thần báo hiếu tâm linh và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật trong đạo Phật.
19/08/2021(Xem: 6700)
Các câu trích dẫn giáo huấn của Đức Đạt-lai Lạt-ma dưới đây được ghi lại từ một tư liệu trên trang mạng tiếng Pháp Evolution-101 https://www.evolution-101.com/citations-du-dalai-Lama/. Các câu này được xếp theo các chủ đề: 1- Tình thương yêu 2- Tiền bạc 3- Hạnh phúc 4- Lòng tốt
18/08/2021(Xem: 9900)
LỜI MỞ ĐẦU Thông thường ở bất cứ quyển sách nào cũng có lời mở đầu của chính tác giả, hoặc lời giới thiệu của một người nào đó cho tác phẩm sắp được ra đời. Nay cũng nằm trong thông lệ ấy, tôi viết lời nói đầu cho quyển sách năm nay lấy tên là: "CHÙA VIÊN GIÁC", một quyển sách bằng tiếng Việt mà bao nhiêu người đã chờ đợi.
17/08/2021(Xem: 7630)
Thật là một điều kỳ diệu và lý thú khi được tin báo trên Viber là Tuyển Tập pháp Thoại vừa hoàn thành và đã sẵn sàng đến tay Phật Tử khi đến dự Lễ Vu Lan tại Tu Viện Quảng Đức (nếu không bị lockdown). Vì sao gọi là kỳ diệu? Chỉ sau khi tôi được học xong 10 duyên mà Đức Phật cho là quan trọng nhất theo thứ tự của 24 duyên, mà chúng ta ai cũng phải gặp trong thời gian còn làm người phàm, và nếu hiểu rõ tường tận thì mình có thể sẽ không bao giờ thốt lên câu “Học muôn ngàn chữ nghĩa nhưng không ai học được chữ Ngờ” của bộ Đại Phát Thú / Vi Diệu Pháp, do Giảng Sư Thích Sán Nhiên đã thuyết giảng qua 61 video, mỗi video kéo dài từ 3: 00 đến 3:50 giờ. Chính vì thế, nhờ đó tôi chợt nhận ra nhân duyên gì đã làm trưởng duyên và đẳng vô gián duyên, để tôi đến với Đại Gia Đình Quảng Đức Đạo tràng nói chung, và tiếp xúc liên hệ với TT Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng và được cộng tác với Ngài trên trang website Phật Giáo, Trang Nhà Quảng Đức, để rồi hôm nay lại có duyên
17/08/2021(Xem: 5170)
Phần này bàn về cách dùng nên so với lên vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các âm này được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Ngoài ra, từ thời Việt Bồ La thì nước Việt đã mở rộng bờ cõi đến tận Cà Mau và khuếch đại các sự khác biệt trong ngôn ngữ như phương ngữ Nam bộ (tiếng Nam Kỳ) so với Bắc Bộ. Do đó các nhân tố địa-chính-trị đã đóng phần không nhỏ trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại, thí dụ như cách nói "nên mười tuổi", cùng với khuynh hướng "chuẩn hóa" tiếng Việt so với hiện tượng lẫn lộn n và l mà một số tác giả cho là ‘nói ngọng’ đều liên hệ phần nào đến chủ đề bài này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]