Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ích Kỷ & Ái Dục

20/09/201512:30(Xem: 9926)
Ích Kỷ & Ái Dục

hoasen_3

Ích Kỷ & Ái Dục

Lê Huy Trứ

tle8464953@aol.com

trule9@Gmail.com

 

 

August 9th  2015


 

Mục Lục

1.     Giới Thiệu. 3

2.     Nhập Đề. 3

3.     Ái Ố khổ trong ca dao Việt Nam.. 4

4.     Hữu duyên từ ái dục mà ra. 8

5.     Không tạo nghiệp cũng bị báo. 10

6.     Cô Đơn Khổ. 10

7.     Ích Kỷ và Ái Dục. 14

8.     Ái Dâm Dục. 15

9.     Tạm Kết 18

Tài Liệu Tham Khảo. 20


 

1.   Giới Thiệu

 

Tâm dục được xếp hạng trên tất các sắc tướng, gọi là Sắc Dục, mà mê đắm sắc đẹp đưa đến dâm dục là điều cốt yếu của mọi vấn đề trên cõi Ta Bà.  Tham dâm dục thôi thúc trong lòng khiến con người phải hành động để được thoả mãn ham muốn. Khi cái luồng chân khí ái dục này dâng lên thì si ái tình, khi đi xuống thì tham nhục dục.  Mà ái có nghĩa là yêu thương thuộc tình cảm với cảm giác cao thượng.  Dục là sự si mê, thèm khát thể xác.  Khi dâng lên khi hạ xuống bất thường thì bị tẫu hỏa nhập ma, thất tình lục dục, đưa đến hành động phi luân, phạm pháp, vô đạo tai hại khôn lường cho mình cho người.

Dục gồm có lục dục hay ngũ dục. Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần; mắt thích nhìn những sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh êm dịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm những vị ngon, thân thích đụng chạm êm ái, ý thích nghĩ tới tham si.  Ngũ dục là năm thứ ham muốn của người đời không dễ gì loại bỏ. 

Kinh Phật nói về Ác Dục, Niệm Dục: Chư hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục thì tôi không ưa thích người đó và nếu tôi có ác dục, niệm dục thì người ấy cũng chẳng ưa thích tôi.   Tỳ-kheo hãy quán sát như vậy, không hành ác dục, không niệm dục.  Nên học như  vậy.   (Trung A Hàm, Kinh Tỳ Kheo Thỉnh, Phẩm 8, số 89)

2.   Nhập Đề

 

Trần Thái Tông viết, "Ái hà chìm đắm biết bao thôi, nhà lửa thiêu đốt ngày nào tắt."  Có nghĩa là ‘quá độ’ nhất là làm vua tối ngày dễ mê đắm tữu sắc, chìm đắm trong lữa dục vọng biết khi nào đủ để thôi, để dập tắc lữa dâm dục.  Đa số chúng ta thường mơ ước quá độ cho dù khả năng có hạn.

 

Vịnh cái quạt II

 

Tác giả:  Hồ Xuân Hương

 

Mười bảy hay là mười tám đây

Cho ta yêu dấu chẳng dời tay.

Mỏng dày từng ấy, chành ba góc

Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay.

Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,

Yêu đêm chưa phi lại yêu ngày.

Hồng hồng má phấn duyên vì cậy.

Chúa dấu vua yêu một cái này.

 

Theo tôi, ái dục đều độ thì thể xác sẽ được tươi khoẻ lẫn tinh thần được minh mẫn và cả vợ lẫn chồng được hạnh phúc trong khoái lạc, "Sông ái càng nếm không muốn thôi,  lửa dục đốt ấm không cầu tắt," dù biết nó vô thường.  Đây là cuộc sống thực tế cho những kẽ phàm phu.

 

Vịnh cái quạt I

 

Tác giả:  Hồ Xuân Hương

 

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,

Duyên em dính dán tự bao giờ,

Chành ra ba góc da còn thiếu,

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.

Mát mặt anh hùng khi tắt gió,

Che đầu quân tử lúc sa mưa.

Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,

Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?

 

Nhưng theo quan niệm đạo đức lẫn chủ trương của đa số các tôn giáo, ái dục là tội lổi, là dâm dục, tục tĩu phải bị lên án và hạn chế ngay cả cấm đoán.  Con người vì thế cố che dấu và dồn nén những cơn ẩn ức, những cơn sốt tình dục.  Họ không dám buông thỏa trong khi lửa dục đang thiêu đốt đưa đến đau khổ vì, "Ái hà chưa nếm sao mong thôi, lửa lòng vừa chớm nở nào tắt?"   

Quả mít

 

Tác giả:  Hồ Xuân Hương

 

Thân em như quả mít trên cây,

Vỏ nó sù sì, múi nó dày.

Quân tử có yêu thì đóng cọc,

Xin đừng mân mó nhựa ra tay.

 

Khoái lạc qua mau thường luôn đi đôi với đau khổ dai dẵng.  Chúng sinh, giống hữu tình, và nhất là con người không có thể ‘chịu đựng’ khoái lạc lâu dài được.  Chúng ta không sướng, cười, vui liên tục trong 24 tiếng nổi vì nếu kéo dài những cái khoái lạc đó, ta sẽ trải qua từ cảm giác sung sướng khoái lạc tới đau khổ, khó chịu.  Ngược lại, chúng ta có thể đau khổ không nguôi dù thân xác bớt đau đớn nhưng lòng vẫn luôn luôn buồn khổ tưởng như là sầu thiên thu.

 

Theo Phật Giáo, luyến ái là nguyên nhân của cái SINH, trong khi đó cái TỬ là đoạn ái, là đuôi và đầu của luân hồi: sinh lão bệnh tử; một gạch nối liền tử - sinh của chúng sinh, hay là sinh trụ hoại diệt của vạn vật trong vũ trụ trừ những bật thánh nhân đi ngược dòng, tu hành giác ngộ, đoạn tuyệt luân hồi. 

 

3.   Ái Ố khổ trong ca dao Việt Nam

 

 

Theo Phật Giáo, sinh là khổ; già là khổ; bệnh là khổ; chết là khổ; lo lắng, than thở, buồn rầu, tuyệt vọng là khổ; không đạt gì mình ưa thích là khổ; nói tóm lại: mọi thứ dính líu đến Ngũ Uẩn đưa đến khổ.

 

Ái ân không đặng, yêu nhau sao chẳng được gần nhau (ái biệt ly.) Ghét nhau sao cứ lại gần nhau (oán tăng hội.) Mong muốn cầu xin, khó toại nguyền (cầu bất đắc.)

 

Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt;

Ở chung với người nghịch, như nếm mật, nằm gai.

*

Ôi ái ân không trọn vẹn,

Thương nhau mà phải xa lìa.

Hy vọng thành công lại không đạt.

Ghét nhau mà vẫn phải sum vầy.

*

Mênh mông bể khổ tơi bời sóng,

Những chiếc thuyền con mãi lướt xông…

Xuôi ngược, ngược xuôi, đồng cảnh ngộ,

Vẫn sầu, vẫn thảm, vẫn long đong…

*

Xin thú thật, giữa đêm trường con khóc.

Nước mắt con sao lai láng chảy hoài.

Nước mắt con sao mãi mãi không vơi.

Sao vẫn thấy cuộc đời cô độc quá !

*

Cây khô xuống nước cũng khô,

Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo.

*

Gánh cực mà đổ lên non,

Cong lưng mà chạy, cực còn theo sau.

 

Nỗi khổ da diết nhất của con người có lẽ là ái biệt ly khổ:

 

Nhớ chồng thắt đau từng đoạn ruột,

Nhìn con suối lệ cứ tuôn tràn.

*

Một thương, hai nhớ, ba trông,

Bốn chờ, năm đợi, sáu mong kết nguyền.

*

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,

Như đứng trong lửa, như ngồi đống rơm.

*

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai.

*

Xa chi mà xa oan xa ức,

Xa tức, xa tối, xa tội lỗi lắm ông trời,

Xa lời ăn tiếng nói, chỗ đứng ngồi cũng xa.

*

Mong người chẳng thấy người sang,

Ngày ngày ra đứng cổng làng ngóng trông.

Con đường xa tít bên sông,

Bóng chiều đã xế mà không thấy người.

*

Một đêm là mấy trống canh,

Ngủ đi thì nhớ, trở mình lại thương.

Ruột tằm bối rối tơ vương,

Rằng ai để nhớ, để thương trong lòng.

*

Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội,

Người xa người tội lắm người ơi !

Chẳng thà không biết thì thôi,

Biết rồi, một đứa mỗi nơi sao đành.

*

Hoa nở để rồi tàn,

Trăng tròn để rồi khuyết.

Bèo hợp để rồi tan,

Người gần để ly biệt.

(Xuân Diệu)

 

4.   Bài thơ chùa Hương bất hủ

 

Nhà Thơ Tịnh Mạc viết: Trong đời yêu thơ và sáng tác thơ văn, cho đến ngày tôi nhắm mắt. Thì bài "Chùa Hương" này sẽ là một trong những bài thơ tôi yêu thích nhất. Yêu thích vì sự bình dị mà trong sáng. Lãng mạn mà chân thực từng câu từng chữ. Bài thơ rất hay sau khi phổ nhạc cũng rất hay (nhất là bài hát giữ nguyên bản của bài thơ.) Đây là một trong vài bài thơ mà tôi thuộc lòng từ lâu, xin tưởng niệm Cụ Nguyễn Nhược Pháp, 20 mấy tuổi thôi, sao cụ tài thế không biết.

 

Bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp lúc đó ông mới 20 tuổi, đi chùa Hương cùng với Nguyễn Vỹ và 2 người bạn gái, vì nhân duyên tình cờ gặp một bà cụ và cô gái quê ngây thơ xinh đẹp.  Nhờ đó mà Nguyễn Nhược Pháp làm ra bài thơ tình cảm lãng mạng bất hủ nhưng lại rất tình cờ đầy Phật tánh.  Một đoạn dưới đây diễn tã thời gian tương đối, mau chậm do tâm tạo, giữa cụ bà, cô gái và chàng trai tuy cùng ‘tâm điểm’ nhưng ‘tâm nhịp’ bất đồng.  Cụ bà tin nếu nhất tâm năng cầu thì sẽ được, sở cầu tất đắc, đường còn lâu nhưng sở cầu Quan Thế Âm thì sẽ tha hồ đi mau.  Cô gái niệm A Di Đà từ tâm bất loạn trở thành tâm bấn loạn khi bị cú sét ái tình cho nên tưởng mình cầu bất đắc, mong muốn đường càng lâu, thời gian chậm lại nhưng đường vẫn cảm thấy đi mau. 

 

Cô ta suy bụng ta ra bụng chàng trai, người mà cô ta thương thầm trộm nhớ, tưởng chàng ta cũng đồng tình, đồng tâm với mình.  Vậy thì tâm cang lẫn lòng dạ, bụng của chàng trai nghĩ gì?  Chàng trai có biết bụng cô gái, tâm cụ bà hay suy bụng người ra bụng ta với bài thơ tưởng tượng đầy lãng mạn tính?

 

Me bảo: "Đường còn lâu,
Cứ vừa đi ta cầu
Quan Thế Âm bồ tát
Là tha hồ đi mau!"

*
Em ư? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau.
Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu).

 

Tác giả của cuốn sách nổi tiếng, ‘Tuấn, chàng trai nước Việt,’ Nguyễn Vỹ kể lại, "Bài thơ Chùa Hương là bài khá nhất trong tập thơ Ngày Xưa, có một lai lịch kỳ thú không ngờ. Chuyến đi Chùa Hương ấy, Nhược Pháp đi với tôi và hai cô gái nữa, đều là nữ sinh cả. Hai cô mang theo hai máy chụp hình, còn Nhược Pháp và tôi đều đi tay không. Trèo lên đến rừng mơ bỗng chúng tôi gặp một bà cụ vừa bước lên đèo, đường gồ ghề lởm chởm, vừa niệm: "Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế âm Bồ tát...". Cô gái quê có lẽ là con của cụ, cũng đang niệm câu ấy nhưng nửa chừng trông thấy chúng tôi là hai chàng trai nhìn cô trân trân thì cô bẽn lẽn làm thinh không niệm Phật nữa. Cô đang đọc: "Nam mô cứu khổ cứu nạn..." rồi cô im. Đôi má cô đỏ bừng, cô cúi mặt xuống. Hai đứa tôi hỏi cô: "Tại sao trông thấy chúng tôi, cô không niệm Phật nữa?" Cô gái quê có vẻ đẹp ngây thơ bỗng tỏ vẻ bối rối muốn khóc. Không ngờ hai cô bạn nữ sinh lén chụp được tấm hình hai đứa tôi đang hỏi chuyện cô gái quê, rồi có lẽ không bằng lòng chúng tôi nên hai cô lén đi trước, và đi lúc nào chúng tôi không hay biết, cũng chẳng nói năng gì với chúng tôi cả, bỏ chúng tôi ở lại với cô gái quê. Chúng tôi mê nói chuyện với cô này, một lúc sực nhớ lại hai cô bạn, chúng tôi vội vàng đi theo nhưng không kịp. Hai cô đã lên đến chùa Ngoài, rồi lên đến chùa Tiên Sơn, lẫn trong đám đông người, biến mất dạng. Đêm ngủ trong chùa Hương, sáng hôm sau ra về, chúng tôi mới gặp lại hai cô bạn đồng hành. Tôi phải xin lỗi mãi, nhưng Nhược Pháp cứ tủm tỉm cười không nói. Về Hà Nội, hai hôm sau, Nhược Pháp đem đến tôi bài thơ Chùa Hương, mà trong bản chép ra đầu tiên Nhược Pháp đề là Cô Gái Chùa Hương. Nhược Pháp lấy cuộc gặp gỡ lý thú của chúng tôi với cô gái quê làm đề tài và tưởng tượng thêm ra, thành bài thơ đẹp, giọng ngây thơ, y như cô gái chùa Hương hôm ấy..."

 

Có người còn suy tâm người ra tâm cô gái và bụng chàng trai, “Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện.”

 

Ngun ngút khói hương vàng,

Say trong giấc mơ màng

Em cầu xin Giời Phật

Sao cho em lấy chàng.

 

Tâm của Nguyễn Nhược Pháp tạo ra bài thơ này không hẳn đó là tâm can của cô gái lẫn bà cụ.  Cô gái không làm thơ, không viết ít hay nhiều.  Đó là chưa kể những cái tâm khác của Nguyễn Vỹ và 2 cô bạn gái cùng đi với Nguyễn Nhược Pháp bị nhà thơ và bạn cùng  bỏ rơi đi theo cô gái quê hay 2 cô đó bỏ rơi 2 tên cà chớn, cù lần, sống trong ảo tưởng của thơ mộng.

 

“Tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ, đời kém vui khi đã vẹn câu thề!”  Tình đẹp khi đắc hay không đắc và đời vui hay buồn khi vẹn thề hay không vẹn thề chỉ toàn ở trong tâm tưởng của những nhà thơ sống trong ảo tưởng như Nguyễn Nhược Pháp thời đó bị ảnh hưởng bởi phong trào yêu đương lãng mạng từ văn hóa của Âu Châu/Pháp thích thú thương đau.

Tâm ái tình tạo Tâm thất tình!

 

Tôi xin suy theo quan ‘điểm tâm’ tôi ra ‘tâm điểm’ của người, có thể duyên nghiệp nó cũng như thế này:

 

Ái Biệt Khổ và Ái Ái cũng khổ qua những câu ca dao Huế:

 

Anh bên ni lòng vừa thương vừa dớ,

Em bên nớ dạ vừa khổ vừa sầu,

Biết răng chừ mình gặp mặt được nhau?

Rị mọ phân giải mấy câu ân tình.

(Lê Huy Trứ)

 

5.   Hữu duyên từ ái dục mà ra

 

Theo Hòa Thượng Tịnh Không, “Phật dạy chúng ta, từ quan hệ cha con, quan hệ anh em cho đến quan hệ với tất cả mọi người đều không ngoài bốn loại duyên là báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ.” Cho nên mới có câu: Con là nợ, vợ (chồng) là oan gia! Đa số cha mẹ nợ con cái hơn là chúng nó nợ mình.  Tiền nhân đã thấm thía nói: Nước mắt chảy xuống.  Hay công cha nghĩa mẹ bao la như biển Thái Bình.  Trong một bầy con may ra mới có được một đứa hiếu thảo chăm sóc thường xuyên cho cha mẹ.  Có thể vì kiếp trước nó nợ mình nên kiếp này nó tình nguyện làm con thay vì mong muốn làm cha mẹ của mình.  Theo câu chuyện ngụ ngôn, có một người đầy tớ trước khi bệnh chết trăn trối với chủ nhân:  Tôi đội ơn đức đã được ngài chăm sóc nên kiếp sau tôi nguyện sẽ đầu thai làm cha của ngài.  Đó là ý nghĩa của câu – con là nợ, làm cha mẹ phải nuôi nấng, trả nợ đám con.

 

Ngược lại, nếu không bị vướng vào bốn loại duyên phận trên thì dù tương ngộ cũng bất tương phùng, sẽ không hề luyến lưu gì như những người lạ qua đường.  Ngay trong đời này sở dĩ có phát sinh quan hệ với nhau, thì nhất định trong đời quá khứ đã có liên quan đến bốn loại duyên nghiệp trên.

 

Chúng ta điều biết khi mà duyên nghiệp đã chín mùi thì quả báo (kết quả) và khi hết duyên nghiệp thì quả rụng (ra đi.)  Đó là chu kỳ của sinh trụ hoại diệt hay với con người thì sinh lão bệnh tử.  Những người mà ta gặp gỡ, sinh sống ở trên đời chỉ như là một hợp đồng (contract) hay a job mà ta phải làm và thực thi.  Muốn gia hạn hợp đồng  (renew contract) hay không thì phải tùy thuộc vào tâm ý của người lẫn ta.

 

Kiếp sau chắc chắn chúng ta sẽ không sinh ra cùng nhà với nữ hoàng Anh Quốc, Bill Gates, Angelina Jolie, ... nhưng sẽ gặp lui gặp tới những cái mặt mẹt quen thuộc chúng ta thường gặp hàng ngày dù thích hay không thích.  Người ta gọi là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.  Cũng như cùng một lò hát bội mà ra, cùng đóng vai tuồng miệt vườn,  ngày nay làm chồng, làm vợ, làm con rồi ngày mai làm đầy tớ, làm vua, ấu đã, ái ố lẫn nhau cho khán giả nẫu thưởng thức mà thôi.  Cho nên, không phải vì ngày hôm qua mình làm vua chém đầu cả đám rồi thì ngày nay mình đóng vai làm dân bị cả đám chém đầu là vì nhân quả của vở tuồng hôm qua mà chỉ là vở tuồng mới viết từ đạo diễn 'gà nhà nuốt dây thun.'  Vì ông vua ngày hôm qua lẩn thằng dân ngày hôm nay cũng chỉ là một vở tuồng kịch, một nghề diễn xuất chứ không phải là thật tâm.

 

Tôi là một người,‘person,’ một diễn viên.  Mà ‘persona’ cũng có nghĩa là mặt nạ sân khấu.  Cho nên, tôi là một diễn viên đeo mặt nạ sân khấu.

 

From Wikipedia, the free encyclopedia: A persona (plural personae or personas), in the word's everyday usage, is a social role or a character played by an actor. The word is derived from Latin, where it originally referred to a theatrical mask. The Latin word probably derived from the Etruscan word "phersu", with the same meaning, and that from the Greek πρόσωπον (prosōpon). Its meaning in the latter Roman period changed to indicate a "character" of a theatrical performance or court of law,[citation needed] when it became apparent that different individuals could assume the same role, and legal attributes such as rights, powers, and duties followed the role. The same individuals as actors could play different roles, each with its own legal attributes, sometimes even in the same court appearance. According to other sources, which also admit that the origin of the term is not completely clear, persona could possible be related to the latin verb per-sonare, literally: sounding through, with an obvious link to the above-mentioned theatrical mask.

 

Muốn làm bà con với những kẽ giàu sang, mong sinh trong nhà vua chúa hay làm hàng xóm với những kẽ đại gian, đại ác, đại hùng, thành công hiển hách trên đời thì phải chính mình làm một cuộc "cách mệnh vĩ đại" mới mong chuyển được cái nghiệp tôm tép tầm thường mà mình đang cưu mang.  Lúc mà cá chép vượt qua Long môn thì mới hóa rồng.  Lúc đó, chúng ta sẽ gặp toàn là rồng, gần gủi với những vĩ nhân, sẽ được ở trong vòng chơi của họ, rồi lại than trời trách đất, cuộc đời sao khốn nạn, cầu đắc khổ - tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa.

 

Oán ghét nhau lẫn thương yêu nhau đều khổ.  Một bên khổ vì đau tim một bên khổ vì phiền nảo; kết quả là đau tim, đau bao tử, nhứt đầu, nóng giận, lên máu, buồn thương, biến ăn biến ngủ.  Đó là cái khổ thứ hai trong Bát Khổ.  Cho nên kinh sách có câu: “Nghiệp bất trọng bất sanh Ta Bà.  Ái bất đoạn bất sanh Tịnh Độ.”  Có nghĩa, Nghiệp không nặng không sanh trong ‘ráng chịu.’  Ái không dứt không sanh Tịnh Độ.  Cho nên, muốn thoát khỏi cỏi Ta Bà đau khổ này thì không những không nên ghét nhau mà còn phải không nên yêu nhau nữa, phải viễn ly hỷ nộ ái ố.  Ghét nhau và luyến ái nhau nhất là ái dục ràng buộc ta kiếp này qua kiếp khác, luân hồi triền miên làm chúng ta trở thành oan gia, thân bằng quyến thuộc, liên hệ rồi khởi lòng thương ghét lẫn nhau. Do đó, nếu mong muốn không gặp nhau ở kiếp sau thì phải chấm dứt nghiệp quả, đoạn tuyệt nhân duyên bằng cách tu hành giác ngộ để ra khỏi luân hồi.   Dĩ nhiên, nếu mong muốn gặp lại nhau (I will be back.  See you again/later) thì không cần phải tu hành để thoát khỏi luân hồi.  Đó là quyền chọn lựa của mỗi cá nhân.

 

Do vậy chớ yêu ai,

Ái biệt ly là khổ.

Những ai không yêu ghét,

Không thể có buộc ràng.

(Kinh Pháp Cú - Phẩm Hỷ Ái)

 

6.   Không tạo nghiệp cũng bị báo

 

Có một cái khổ mà ít người biết đến, chỉ có những bật giác ngộ có được thần thông mới kiến được.  Trong quá khứ trên đời này, mình đã làm một điều gì đó, đáng thương hay đáng ghét, để cho người khác thù hận, nguyền rủa hay thương nhớ, tương tư mình suốt đời thì dễ dàng để giải thích nguyên nhân hậu quả của nó.  Nhưng có những tha nhân vì một duyên nợ nào đó họ được tiếp xúc, giúp đở, săn sóc từ lòng thân thiện tử tế của mình.  Những người này không biết vì duyên nợ kiếp nào mà chỉ mới nhìn thân sắc của mình thì đã mê sắc rồi họ hồn bướm mơ tiên, bị ngay tiếng sét ái tình dù họ chưa bao giờ tiếp xúc trực tiếp với mình hay thề non hẹn biển với mình.  Vì họ vô duyên, sinh trật không gian và thời gian, mà mình thì lại vô tình không hề hay biết để đáp lại cái tình câm đó làm cho họ âm thầm thương nhớ, tương tư đau khổ suốt đời dù cả họ lẫn mình đều đã có gia đình và con cháu đùm đề.  Những người này, khi có dịp, họ vẫn tự gợi nhớ trong lòng, vẫn thất tình như một ẩn ức tình dục, một mơ ước yêu đương chưa bao giờ thật.  Vì họ tự yêu thú thương đau nên luôn luôn đau khổ, mộng mơ không biết cách nào giải tỏa tấm lòng nên phải nhờ vào thơ văn hay tâm sự nhắn tin qua bạn bè.  Họ luôn luôn mộng du, yêu hình yêu bóng chứ không thật sự yêu người bằng xương bằng thịt mà mình bị họ chọn làm đối tượng ước mơ.  Đó cũng là một nghiệp chướng rất nặng nề, không may cho mình dù không phải mình tạo ra nhưng vẫn bị vấn vươn và bắt trả báo bởi tha nhân.  Cái nghiệp trời ơi đất hỡi này nó tai hại cho cả mình lẫn họ.  Cho nên, nếu mình là một trong những người xui xẽo, vô cầu mà bị vươn phải cái nghiệp không gieo nhân mà bị quả báo này và cũng vì vậy mà luôn kém may mắn không được vừa ý trên đời thì ta cũng nên nguyện cầu cho những oan gia này quên mình, vơi nhớ nhung ái dục, buông tha mình, cắt đứt dây oan, để cùng nhau bớt khổ nghiệp. 

 

7.   Cô Đơn Khổ

 

Những kẻ phàm phu bị câu thúc trong vòng Oán Tăng Hội (ghét mà phải gặp mặt) rồi ảo tưởng là Khổ vì không tìm ra được người tri kỹ tri bĩ như độc cô cầu bại suốt đời cô đơn.

Xa hơn nữa, khổ về oan gia hội ngộ. Tức bản thân luôn phải sống và làm việc cùng với những kẻ đối nghịch thù oán ở gần bên gièm pha, nói xấu, phá phách, mưu hại, làm cho ta phải bực tức, khổ sầu, lo sợ, bất an... Hoặc trong một giòng họ, gia đình: cha mẹ, anh em, vợ chồng con cái lẫn bà con… không đồng ý kiến, thường có sự tranh cãi, giận ghét, buồn phiền, ganh tương, ích kỷ, mưu hại lẫn nhau.  Đây là nỗi khổ oan gia từ kiếp trước nay phải đầu thai vào trong một gia đình để gây khổ đau cho nhau, đòi nợ nần, trả thù oán lẫn nhau không còn gì là hạnh phúc chân thật.   Rồi một ngày nào đó khi mà oan nợ hết thì cái đám bà con vô tích sự, anh chị em bạc bẽo, đám con cái từ nghịch tử lẫn nghịch nữ, hoặc là họ rũ nhau ra đi không trở lại hay ta không màn đến họ nữa; ngay cả người phối ngẫu oan gia, khắc khẩu ngày nào đầu ấp tay ôm, từ thương nay thì trở thành người xa lạ, Oán Tăng Hội, cũng chia tay.  Chỉ còn lại mình ta sống trong căn nhà đầy trống vắng (full emptiness of empty nest) mà một thời là mái ấm gia đình đầy hạnh phúc rồi trỡ thành đầy địa ngục trần gian và cuối cùng đầy cái không của hạnh phúc lẫn địa ngục.  Ta bổng nhiên cảm thấy trống vắng cái khổ (emptiness of suffering) nhưng đầy bình an trong cô đơn (full of lonely calmess.)  Tuy cuộc đời đã lỡ làng nhưng ta cũng không chút luyến tiếc lẫn mong muốn gì hơn là bằng lòng với hiện tại, sống cơ đơn như thế cho trọn kiếp người.  Đó là, hạnh phúc trong cô đơn; cô đơn trong hạnh phúc.  Mà Bát Nhã Tâm Kinh đã nói: Sắc tất thị không; Không bất thị sắc.  Có cô đơn cũng như không; không cô đơn cũng như có.  Cô đơn là không khổ; Không khổ là cô đơn.

 

Hay là may mắn hơn, rất ít chúng ta được một gia đình hạnh phúc, có được người phối ngẫu (soul mate) tâm đầu ý hợp, vật chất đầy đủ, trong nhà đầy tiếng vui cười, con ngoan hiếu thuận, thông minh, xinh đẹp, học hành giỏi, thành công trở nên những người hữu dụng trong xả hội.  Rồi như thế, bổng nhiên chúng nó lớn lên có gia đình riêng, không chung sống với mình nữa, và người phối ngẫu tuổi già xế bóng cũng chia tay với mình đi về cỏi khác để lại mình vò vỏ cô đơn.  Mổi khi đi đâu xa trở lại ngôi nhà thân yêu (home sweet home) chúng ta cảm thấy trong không gian dư âm tiếng cười đùa của trẽ thơ, văng vẳng đâu đây tiếng con cái mình cải cọ nhau, hay dư âm tiếng mình ơi của người phối ngẫu thường hay gọi mình làm điều này điều kia mà có một thời làm mình bực bội, nhức đầu.  Bây giờ mong sao níu kéo thời gian lại để được sống trở lại những giây phút thần tiên đó dù chỉ được một lần thôi, để được nghe những người mình thương yêu vui đùa, nói năng, và để được sống lại những ngày hạnh phúc xưa.  Bây giờ ta mới cảm thấy đó là một mất mát lớn lao, là hạnh phúc qúy giá nhưng quá vô thường như bóng câu cữa sổ.   

 

Ôi vợ con ơi đã đâu rồi,

Ôi tình, ôi nghĩa, duyên thế thôi.

Ngày nào hạnh phúc nghe con nói,

Trước ngõ, phòng the vợ đón chờ.

Đập cổ kính mong tìm thấy bóng,

Xếp tàn y ủ chút hương thừa.

Cô đơn muốn dứt càng vướng bận,

Đau khổ theo hoài vẫn chẳng thôi.

 

(Lê Huy Trứ đối lại với bài thơ Khóc Bằng Phi của Vua Tự Đức hay Khóc Bằng Cơ của đại thi hào Ôn Như Hầu, tức Nguyễn Gia Thiều)

 

Cha mẹ chúng ta, chúng ta và con cháu chúng ta rồi cũng đều phải trải qua những tình cảnh đoạn trường này, sớm hay muộn.  Đây là cô đơn của hạnh phúc trống vắng (emptiness.)   Không gian (full of form) văng vẳng đầy tiếng cười, nhưng trống vắng (emptiness of form) tiếng cười.  Đó là, cô đơn trong khổ; khổ vì cô đơn.  Mà Bát Nhã Tâm Kinh đã nói: Sắc tất thị không; Không bất thị sắc.  Tiếng cười là Không; Không là tiếng cuời.

 

“Con là nợ, vợ là oan gia!” những duyên nợ khác với cha mẹ, anh chị em lẫn nhân quần xã hội và chính ngay cả cái nhục thân này cũng chỉ như là những hợp đồng vay mượn tạm bợ của một kiếp nhân sinh mà tất cả phải tôn trọng qua những vật chất lẫn thể xác và tâm thần như là những phương tiện để thực thi nhiệm vụ trả nợ nhân duyên.   Chúng ta có thể buông xả, bố thí tất cả những liên hệ ái dục trên hay đúng hơn là chúng ta không có gì để mà xả, không có gì để bố thí vì tất cả những duyên nợ trên đều là vay mượn, trả vay từ vô lượng kiếp không có cái gì thuộc về quyền sở hữu của Nhỉ hay Ngã để mà bố thí cho ai.  Những học giả Mỹ thường dùng động từ Detach để diễn tã cái hành động Xả trong đạo Phật nhưng chữ Non-attach có vẽ thích hợp hơn.  Tất cả trên đời này chỉ là những vay mượn của vũ trụ, ngay cả nhục thân của mình nó không bao giờ thuộc về quyền sở hữu của Ta (ngay cả Ngã củng không có, vô ngã) mà cho (bố thí, give) hay bỏ (detach.)  Chúng ta không thể bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy vì những thứ đó không phải của ta để mà cho mà xả.  Rốt ráo hơn nữa không có kẽ nhận để mà bố thí vì họ cũng vay mượn như Ta. Chữ vô sở, vô trụ, không bám không víu (non-attach,) không buông xả, không bố thí thể hiện được gần như ý kệ của Lục Tổ: Xưa nay không một vật, nơi nào dính (non-attach) bụi trần? 

 

Cho nên, cô đơn vì những người chung quanh, không ai hiểu mình và mình chả cần hiểu ai lẫn cô đơn vì dứt bỏ (non-attach) hay viễn ly ái dục, và tử vong là lẻ thường của vô thường, của duyên nghiệp đó là con đường (Đạo) gần tới vô môn quan, từ bờ khổ gần bến an lạc nhất trên trần gian mà chúng ta chưa ngộ ra đó thôi.  Vì con người tuy bình đẳng, nhưng căn trí thì bất đồng cho nên hiểu biết cũng bất đồng, ham, thích, hành động đều khác nhau cho nên tất cả điều mang cùng căn bệnh cô đơn thâm căn như nhau nhưng khi nó tái phát thì khác triệu chứng (symptoms.)  Nếu ta đi từ quả cho đến nhân (reversed engineering): Cô đơn đau khổvô minh thì chúng ta có thể thấy được cái căn nguyên cội rễ, cái nhân quả và lý nhân duyên của vũ trụ.   Nên hiểu, cái vòng Cô đơnĐau khổVô minh này chỉ là một cái khoen (chain link) của 12 nhân duyên, những vòng chính phụ này di động từng sátna, vô thủy vô chung, trong không gian 4 chiều hay có thể cao hơn (multiple frequencies) không biết đâu là điểm khởi đầu, đâu là điểm chấm dứt.

 

Sở cầu bất đắc khổ (hay cầu bắt đắc khổ, cầu xin không được nên khổ thêm chồng chất) là con người cảm thấy khổ khi không được toại (bất đắc) nguyện vọng, tham muốn, khao khát của bản thân (sở cầu.) Chẳng hạn, thất vọng vì không ai hiểu được mình nên đau khổ cô đơn.  Con người chỉ có sức chịu đựng giới hạn nếu nổi khổ quá dai dẳng không có đường ra, không giải quyết được thì con người dễ bị quẩn trí, hành động cuồng si hại mình, hại lẫn những người chung quanh.  Điều này là vấn nạn rất nguy hiểm của xã hội con người mà chưa có ai tìm được những giải pháp an toàn, ổn thỏa.  Thích hay không thích, muốn hay không muốn, hiểu hay không hiểu thì cũng phải chấp nhận nó là như vậy nếu không muốn ôm lấy nó để khổ tâm thần lẫn đau đớn thể xác.  Đời khổ là đương nhiên nhưng đau là sự lựa chọn của nhục thân và khổ là sự lựa chọn của tâm lý.  Nếu có ai hỏi tôi có khổ đau không thì câu trả lời đúng nhất không phải là có hay không mà là thân ngũ uẩn này có cảm nhận được đau khổ (my body does,) thay vì nói tôi có đau khổ.  Thiểu số người hiểu được chuyện này và linh cảm được (sense) được chuyện này nhưng không biết làm sao hay không muốn giải quyết vấn nạn này vì họ không muốn thay đổi hay từ bỏ tập tục và thói quen đang có.  Họ muốn có được thần thông ngay tức khắc để biến ra những điều họ muốn nhưng họ không biết là nếu muốn có được thần thông thì trước nhất phải xa lìa, từ bỏ những điều họ muốn đó đã, rồi thì thần thông không cầu cũng có.  Đây cũng là lý do cầu bất đắc khổ.

 

Tất cả những gì xảy ra cho con người đều từ nhân duyên, nghiệp quả (cause & effect) mà đến và vì hết nhân duyên mà đi.  Hạnh phúc không khác đau khổ; Đau khổ không khác hạnh phúc.  Hạnh phúc hay đau khổ là vô thường, nó sẽ đi rồi sẽ trở lại.  Đời thiệt là khốn nạn!  Cho nên, chúng ta có lúc oán trời trách đất, trách Phật lẫn Chúa không cứu khổ, cứu nạn lúc mình cần cầu xin thì cũng là điều đáng thương của con người đáng được thông cảm và tha thứ.  Oán trách cũng là phương thuốc an thần tạm thời của con người miễn là đừng vì vậy mà điên cuồng, hành động cực đoan hại mình, hại người.  Cho nên, oán trách cũng là một bản năng sinh tồn của con người để giảm bớt sức ép tâm lý (stress) trước áp lực của lo lắng, đau khổ.

 

Ôi ái ân không trọn vẹn,

Thương nhau mà phải xa lìa.

Hy vọng thành công lại không đạt.

Ghét nhau mà vẫn phải sum vầy.

 

Theo ý kinh Bát Nhã: Không có Cô Đơn. Không có người cho kẻ nhận. Không thương ghét, đáp trả.   Không thể mong cầu, chờ đợi cái không có nên vì vậy cầu xin chẳng đặng. Không thể đi tìm cái không có. Không có không gian, không có thời gian cho nên không có bờ kia, không có bến nọ để xa nhau hay gần nhau để tương tư hay thông cảm cỏi lòng, để bớt cô đơn hay càng thêm cô đơn cay nghiệt.  Không có gần mặt cách lòng, không có ngoại cảnh lẫn nội tâm vì tâm không ở trong ta, không ở ngoài ta mà ta ở trong tâm.  Không có ta để nhìn ra ngoài để bị ngoại cảnh chi phối, lẫn nhìn vào trong để tìm thấy ta, vô ngã.  Cho nên không có cô đơn hay không cô đơn để bắt bóng hay trốn chạy.  Thế giới chúng ta đang sống như điện như ảo tự nó trống vắng nhưng đầy cái không (emptiness.)

 

Đó là chân lý rốt ráo của ‘sắc bất thị không, không bất thị sắc.’ Sắc là không, không là sắc.  Sắc là sắc, không là không. Sắc sắc, không không! 

 

Tóm lại, cô đơn chỉ là cái triệu chứng (symptom) mà khổ đau mới là gốc của cô đơn, lại là cái ngọn của vô minh trùng trùng kiếp kiếp trong vòng duyên khởi.  Tuy nhiên, khổ cũng là ảo, nghĩa là đời người tưởng tượng đầy cả mọi thứ khổ đau. Ngay cả vô minh cũng không có.  Không có vật gì lẫn cả bụi vô minh có thể bám dính được lòng Bồ Đề.

 

Đó là trí tuệ giác ngộ của Lục Tổ Huệ Năng qua câu kệ nổi tiếng:

 

菩提本無樹。
明鏡亦非臺
本來無一物。
何處有(匿)塵埃

Bồ-đề bổn vô thụ,

minh kính diệc phi đài

Bổn lai vô nhất vật,

hà xứ hữu (nặc) trần ai?

Bồ-đề vốn chẳng cây,

gương sáng cũng chẳng phải là đài

Xưa nay không một vật,

nơi nào dính bụi trần?

 

 

8.   Ích Kỷ và Ái Dục

 

Những bản chất tham sân si, ích kỷ, luyến ái, dâm dục của nhân sinh đã được Đức Phật biết trước, 2600 năm về trước và được Đức Thế Tôn phân tích và trình bày rất là chi tiếc với đầy logic khoa học như là những nguyên nhân đưa đến đau khổ với những với phương pháp trị liệu để được giác ngộ, thoát luân hồi khổ đau.

Con người có 2 bản năng cố hữu.  Sigmund Freud gọi bản năng thứ nhất là tính dục (Libido – a sexual [pleasure] urge) và François de La Rochefoucauld gọi bản năng thứ hai là lòng ích kỷ (Psychological egoism.)

 

Lòng ích kỷ đưa đến quyền “tư hữu.” Bản năng truyền giống, thích khoái lạc khiến con người dâm dục mê “sắc dục.” Hai thứ bản năng quan trọng ấy chi phối mọi sinh hoạt, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi cảm xúc của mổi cá nhân lẫn tập thể.

 

Khác với đa số các tôn giáo, những triết gia Tây Phương không hoàn toàn quan niệm những bản tính trên của con người là xấu xa, ghê tởm, vô đạo đức nhưng trái lại tham sân si, ích kỷ, luyến ái, dâm dục là những thiên bẩm đẹp đẽ cao thượng của riêng con người.  Đa số chúng ta vì cho những điều này, nhất là tình dục, dâm đảng, là xấu xa, tục tỉu nên cấm bàn luận lẫn phân tích kỷ lưỡng lợi hại của nhửng khả năng căn bản này. Tôn giáo và đạo đức xã hội còn cấm đoán dạy dổ hướng dẫn những điều này cho con người trong gia đình cũng như trong xã hội công cộng.  Chúng sinh làm những điều ‘tự nhiên biết’ này như là đã kinh nghiệm từ lâu, từ vô lượng kiếp, khỏi phải nhờ cha nhờ sư  hay cha mẹ mình chỉ dạy.  Các giáo sĩ này cũng như những người mù lái taxi cho những con chiên sáng mắt. 

 

Câu chuyện tiếu lâm của Sở cầu dục tất đắc là một thí dụ điển hình, ở vùng nọ có ‘mốt’ nuôi chim vẹt. Một phụ nữ phàn nàn với cha xứ:

- Thưa Cha, lũ vẹt cái nhà con chỉ biết nói mỗi một câu:

“Hi, chúng em là dân chơi nè! Các anh có muốn dâm dục không?”

- Thật là vô luân tục tĩu! Ta sẽ giúp con việc này. Hai con két Francis và Job của ta suốt ngày cầu nguyện và đọc kinh thánh. Hãy mang 2 con vẹt của con đến nhà ta. Chung một lồng với chúng, chắc chắn lũ vẹt của con sẽ được dạy dỗ về sự lễ độ, đạo đức và tôn kính của 2 con két của ta.

 

Người phụ nữ mang hai con vẹt cái của bà ta đến nhà cha xứ. Thấy hai con két đực đang cầm quyển kinh và ‘lầm bầm’ cầu nguyện, bà ta liền thả hai con vẹt cái của bà vào với chúng.

Các ả vẹt cái la lên:

 - Hi, chúng em là dân dâm dục nè! Các anh có muốn chơi bời không?

 Yên lặng… Một con kẹt đực sững sờ buông rơi quyển Kinh, ngó qua con kẹt bạn nó và thốt lên:

-        Francis! Những lời cầu nguyện thầm kín của chúng ta đã được ứng nhiệm rồi!

 

Khác với những tôn giáo khác, Phật Giáo không lên án những căn bản của nhân sinh dục này mà còn phân tích rất chí lý và logic khoa học về những vấn nạn trên cùng với những phương pháp trị liệu, đối phó và dung hòa cho nhân sinh.  Tôi sẽ cố gắng và cả gan diễn tã những cái điều khó khả thuyết này rất tượng thanh tượng hình tượng ý với những phân tích mạch lạc về tâm lý của ‘mắc cở thuyết’ dưới đây. 

 

Trong lúc diễn thuyết trước cả hàng ngàn tín đồ, Đức Đạt La Lạt Ma bỗng nhiên chỉ vào con ‘công ngũ’ của mình rồi ha hả cười lớn rất hồn nhiên vô tội vạ.  Như niêm hoa vi tiếu, ngài chỉ vào con ‘công ngũ’ cười khanh khách một cách hồn nhiên như muốn nói:  Đó đó nó đã tĩnh ngũ ngẩng đầu lên nghe ta thuyết pháp.  Nó không phải là ta cho nên ta chỉ từ bi cười với nó chứ không cần phải Ta Bà (ráng chịu,) nhịn thèm đè nó xuống làm chi cho bận bận tâm ta, cho nó phản kháng mạnh hơn.  Có thể, ngài thuyết pháp thần sầu đến nổi cái của quý của ngài ngỗng lên để nghe pháp?  Tương tự như Tú Xương đang ngồi trong phòng thi bị bí tịt, không làm được bài, rãnh rỗi nhìn lên cô giám thị người Pháp bỗng nhiên cơn lợn lòng nổi dậy, xuất dục thơ:  Trên ghế bà Đầm ngoi đít vịt; dưới chân ông Cữ ngoảnh đầu rồng. (Trần Tế Xương)

 

Nếu ngày ngày tiếp xúc với trần cảnh mà sợ bị cám dổ và đắm nhiễm thì cần phải nghiêm cẩn tu hạnh viễn ly lánh xa lửa dục.  Điều này rất khó thực hành trong thời bây giờ vì chúng ta rất dễ bị cấu nhiễm, bị dục vọng dằn vật trong tâm, luôn bị ám ảnh bởi và suy nghĩ liên miên về sắc dục.  Nếu không dứt bỏ nổi lòng dâm dục tức là còn có cấu nhiễm.  Dứt được cấu nhiễm thì tâm được thanh tịnh, trong sạch.

Lòng dâm dục không hoàn toàn là nhơ uế như nhiều người hay nói nhưng là thứ dục vọng khó kiểm soát nhất. Ngoài ra, các thói tham, sân, si, kiêu mạn và nghi hoặc cũng đều là những cấu nhiễm trong tâm. Trừ sạch các thứ cấu nhiễm này thì tu hành dể chứng Đạo.   Lúc đó, chúng ta sẽ có thể trở về nguồn cội để tìm lại được cái tự tâm thanh tịnh sẵn có của mình.

9.   Ái Dâm Dục

 

Đối với những nhan sắc đang yêu thì khởi tâm tham, bằng mọi cách phải chiếm lấy làm sở hữu chủ.  Dục là sự ham muốn thôi thúc trong lòng khiến người ta phải hành động để được thoả mãn tham dâm.  Hễ lửa dâm dục nổi lên vì sắc dục thì dụ cho dục vọng và ái tình.  Theo Phật Giáo, đó cũng là tình cảm mong muốn các cảnh giới của lục trần.  Lục căn thì thuộc về tình, còn lục trần thì thuộc về cảnh. Cả sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) hợp với sáu trần (hình sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, tiếp xúc, pháp) làm cho con người bị đắm say mê muội, si mê đắm đuối đến nỗi không kềm chế được nữa, chỉ muốn thỏa mãn lửa dục, xả cơn thèm khát.  Càng đè nén càng khủng khoãng đưa đến đau khổ vì bị ẩn ức tâm sinh lý.  Phương cách tốt nhất là phải xả nó ra thay vì dồn nén nó lại.  Nếu không thì lửa lòng đốt cháy tâm cang, cơ thể nổ tung vì bị dồn nén, ẩn ức bởi ái ố dâm dục không nơi xả.  Tuy nó không giết chết ta trên thực tế nhưng nó như con ma lữa dục đã nhập tâm ta.  Cái khó nhất là xả như thế nào?  Người phàm tục xả tự nhiên không vi phạm thuần phong, luân lý, pháp luật.  Bật tu hành có lối xả của Pháp mà Phật đã chỉ dạy và phân tích rất rõ ràng.  Tôi nghe có một tu sĩ nhất quyết hiến thân tam bảo nhưng vì còn trẽ sung sức hay bị dục tâm thử thách nên ông ta ‘dục đao tự cung,’ dùng dao tự thiến, dù không mong cầu làm ‘võ lâm chí tôn’ hành động quyết liệt đầy dũng khí này cũng như Nhị Tổ Huệ Khả ngày xưa, tự chặt tay cúng dường tam bảo quyết học đạo với Đạt Ma Sư Tổ.  Hành động đó, tự cổ chí kim khó ai làm nỗi nhưng nó có vẽ quá khích không hợp với tinh thần Phật pháp.  Đức Thế Tôn đã bỏ cái cực đoan đó bằng cách xả ly cái tu khổ hạnh để tự mình thắp đuốt đi tìm chân lý.  Tuy nhiên khi cái sanh tử hiểm nguy đến với họ những bật thánh nhân vẫn luôn có được cái dũng của vô úy đó cho dù phải sả thân hay đốt xác.

 

Chuyện của Nhị Tổ rất là hy hữu tưởng cũng nên đọc một chút về điển tích của Ngài dưới đây qua Wikipedia và trên Internet:

Huệ Khả (zh. huìkě 慧可, ja. eka), 487-593, là Thiền sư Trung Quốc, vị Tổ thứ hai của Thiền tông, được Bồ Đề Đạt Ma ấn khả. Kế thừa Sư là Tam Tổ Tăng Xán.

 

Theo truyền thuyết thì Sư đến Thiếu Lâm tự năm 40 tuổi tham vấn Bồ Đề Đạt Ma. Ban đầu Bồ Đề Đạt Ma chẳng để ý đến sự hiện diện của Sư, để Sư đứng trong tuyết băng nhiều ngày. Để chứng minh Bồ Đề Tâm của mình, Sư tự chặt cánh tay trái dâng Bồ Đề Đạt Ma và sau đó được nhận là môn đệ. Tắc thứ 41th trong Vô Môn Quan có ghi lại cuộc đàm thoại đầu tiên giữa Bồ Đề Đạt Ma và Huệ Khả.

 

Trong “Phật Tổ lịch đại thông tải” có chép: Có vị Tăng tên Thần Quang, đến tham kiến Bồ Đề Đạt Ma tại chùa Thiếu Lâm. Sơ Tổ đang ngồi thiền, day mặt vào vách. Thần Quang bền chí đứng đợi, chẳng động. Người đứng giữa trời suốt đêm, tuyết đổ xuống phủ cao hơn đầu gối. Tổ Đạt Ma thấy vậy hỏi rằng:

 

 “Ngươi đứng đã lâu giữa tuyết, vậy muốn cầu điều gì?”

 “Xin Hòa thượng rủ lòng từ bi, mở cửa cam lộ, quảng độ chúng sanh.”

 Tổ đáp: “Đạo vô thượng và mầu nhiệm của chư Phật, trải qua nhiều kiếp cũng khó gặp được. Những kẻ trí đức nhỏ hẹp, tâm ý khinh mạn, há dễ mong được chân thừa hay sao?”

Thần Quang nghe vậy, muốn tỏ lòng thành, bèn lấy dao bén tự chặt đứt cánh tay trái của mình dâng lên trước mặt Tổ. Đạt Ma biết là đây là bậc pháp khí, liền đổi tên Thần Quang ra là Huệ Khả.  Theo tôi, ông Thần này có thể là một tay kiếm sĩ nữa nếu không thì vào chùa cầu Pháp mang theo đao kiếm bén để làm gì?  Người chưa luyện đâm chém như Samurai dễ gì chặt ngọt cánh tay trái của mình với một con dao cùn? Thái độ quyết liệt anh dũng này đã không làm chấn động nổi Tổ Đạt Ma nhưng ngài biết là mình đã gặp đư5ơc truyền nhân xứng đáng.  Dưới trướng sư phụ giỏi không có đệ tử hèn.

 

 Huệ Khả bạch rằng: “Pháp ấn của chư Phật, đệ tử có thể được chăng?”

 Tổ đáp: “Pháp ấn của chư Phật chẳng phải do nơi người khác mà được.”

 Huệ Khả lại nói: “Tâm đệ tử bất an, xin thầy an tâm cho.”

 Tổ bảo: “Đưa tâm của ngươi đây, ta sẽ an tâm cho.”

 Một lúc lâu sau, Huệ Khả mới đáp: “Đệ tử tìm tâm không thấy.”

 Tổ nói: “Ta an tâm cho ngươi rồi đó.”

 

Ý nghĩa trên đã được một rừng tư nghị từ cả ngàn năm nay nhưng thật ra chỉ ngắn gọn đơn giản như câu chuyện ngụ ngôn về những chú tiểu mắt lé dưới đây.

 

Sau sáu năm tu tập dưới sự hướng dẫn của Bồ Đề Đạt Ma, chẳng bao lâu, Sơ Tổ tịch, Huệ Khả được truyền pháp, ấn chứng, nhận y bát và trở thành Nhị Tổ của Thiền Tông Trung Quốc.  Khi ấy là năm đầu niên hiệu Đại Đồng triều vua Lương Võ Đế, tức là năm 529 Dương lịch.

 

Dịp truyền pháp được ghi lại trong Truyền Quang Lục, một tác phẩm của Thiền Sư Nhật Bản Oánh Sơn Thiệu Cẩn:

 

Một hôm Sư nói: "Con đã dứt hết chư duyên rồi"

Tổ hỏi: "Ngươi không biến thành đoạn diệt chứ?"

Sư đáp: "Chẳng thành đoạn diệt."

Tổ hỏi lại: "Lấy gì chứng minh?"

Sư đáp: "Rõ ràng thường biết, nói không thể được."

Tổ hài lòng, đáp: "Đó là chỗ bí quyết tâm truyền của tất cả chư Phật, ngươi chớ nghi ngờ gì."

 

Nhị Tổ Huệ Khả về sau lại truyền y bát cho Đại Sư Tăng Xán. Ngài tịch vào năm 107 tuổi, tại Quảng Thành. Vua Đức Tông nhà Đường có thụy phong cho ngài là Đại Tổ Thiền Sư.

 

 Lúc phó Pháp và truyền Y Bát cho Tăng Xán, Tổ có đọc kệ rằng:

 

Bổn lai duyên hữu địa,

Nhân địa chúng hoa sanh.

Bổn lai vô hữu chủng,

Hoa diệt bất tằng sanh.

 

本來緣有地

因地種華生

本來無有種

華亦不曾生。

 

 Dịch nghĩa

 

Xưa nay nhờ nơi mặt đất,

Muôn loài hoa cỏ đều sanh.

Xưa nay chưa từng có giống,

Hoa cũng chưa từng sanh ra.

 

Trước khi đến Bồ Đề Đạt Ma thụ pháp, Đại sư Huệ Khả là người Bắc Ngụy, thành Lạc dương, họ Cơ, trước lấy hiệu là Thần Quang. Sau ngài được pháp của Bồ Đề Đạt Ma ở chùa Thiếu Lâm tại Tung Sơn. Tổ Bồ Đề Đạt Ma đổi hiệu của ngài ra là Huệ Khả. Truớc đó, Sư chuyên học Nho, Lão Trang (Lão Tử, Trang Tử) và kinh sách Phật pháp. Cái hiểu biết từ sách vở này không thoả mãn lòng quyết đạt chính giác của ngài. Vì vậy Sư chú tâm đến việc tu tập Thiền Định, quyết chứng nhận trực tiếp chân lý được tả trong kinh luận.  Sau khi được truyền tâm ấn, Sư sống ẩn dật đây đó vì chưa muốn thâu nhận môn đệ và tập trung tâm sức nghiên cứu kinh Nhập Lăng Già theo lời khuyên của Bồ Đề Đạt Ma.  Sư lang thang đây đó, uống rượu ăn thịt, có những hành động như phàm phu.  Có người hỏi vì sao thầy tu mà làm những việc này, Sư thản nhiên trả lời: "Ta tu tâm mặc ta, có liên can gì đến ngươi."

 

Dầu vậy, Sư vẫn tuỳ duyên hoằng hoá và tương truyền rằng Sư có biệt tài thuyết pháp, dân chúng thường đến rất đông để nghe. Sử sách ghi lại mẩu chuyện thú vị sau:

 

Có một ông sư có thái độ chống báng, sai chú tiểu đến dọ chân tướng của Sư Huệ Khả, nhưng chú này vừa được nghe giảng ‘cái gọi là tà đạo’ thì bỗng nhiên chấn động tinh thần, xin lưu lại học với Nhị Tổ. Vị sư lại sai chú tiểu khác đi gọi chú trước về, nhưng chú sau cũng biến luôn và cứ như thế thêm mấy chú nữa. Sau này, vị sư tình cờ gặp lại chú tiểu đầu tiên, quở: "Sao chú để ta kêu gọi nhiều lần? Ta chẳng tốn công mở mắt cho chú sao?" Chú tiểu đáp: "Mắt của tôi từ bao giờ vẫn thẳng, chỉ vì ông nên nó đâm ra lé!"

Điều này có nghĩa Nhị Tổ chỉ điều chỉnh lại con mắt lé của những chú tiểu vì học nhầm sư phụ kém trí tuệ nên nhìn bên phải thấy bên trái chứ không phải làm cho tự tánh mắt của họ đã nhìn thẳng thành nhìn thẳng hơn được nữa.

 

Những thành tích trong việc giáo hoá khác thường này của Nhị Tổ gây sự bất bình ganh tị của những vị sư khác. Họ phong tin rằng Sư truyền bá tà giáo, chẻ tượng phật, cưa nhà chùa làm củi đốt và tố tụng việc này cho quan trên. Sư bị bắt và sau đó bị xử trảm, có sách chép bị giam cho đến chết.  Sư thản nhiên không sợ hải hay biện bạch nhưng thuận theo, cho rằng đúng với luật nhân quả, Sư có một món nợ tiền kiếp phải trả.  Việc này xảy ra năm 593, Sư thọ 107 tuổi. 

 

Những thái độ tích cực và hành động phóng túng bởi bản tính tự nhiên trước nay của Sư Huệ Khả ngay đến bây giờ cũng rất khó mà giải thích nỗi.  Tuy nhiên, khi một người được chọn lựa trong tất cả các đệ tử, được Tổ Đạt Ma truyền tâm ấn, đã chứng tỏ Thần Quang là một bật trước sau không phải là kẻ tầm thường.  Cũng như các Tổ khác,  những Tổ truyền nhân, kế vị, được ‘chọn’ trước bởi nhân duyên, họ là ‘chosen,’ chứ không phải chỉ định hay được dạy dỗ, uống nắn từ đầu bởi các Tổ tiền nhiệm.  Họ đã tự có đủ nội lực căn bản của trí tuệ và khi nhân duyên đã chín muồi, họ tìm tới các Tổ đương nhiệm để ‘truyền đăng tục diệm’ mà thôi.  Họ là người kế nhiệm duy nhất được ấn chứng để cầm cây đuốt trí tuệ tiếp tục soi sáng Phật Pháp.  Cho nên trình độ giác ngộ của các Tổ điều giống nhau, ngang nhau, dù rằng kinh nghiệm giác ngộ bất đồng.  Không ai dạy được ai; người đi trước chỉ ấn chứng cho người đi sau như là một người lãnh đạo, kế vị Tổ của Thiền Tông mà thôi.  Cho đến đời Lục Tổ, Ngài không tiếp tục truyền chân nữa vì Huệ Năng cho rằng sau sáu đời Tổ các đệ tử thiền tông đã hiễu lầm sai lạc, xem vấn đề ấn chứng làm Tổ như là truyền ngôi vua hay là giáo chủ tông phái với nhiều quyền lực, lợi lộc, đầy tham sân si nên họ hãm hại, ganh tỵ, cạnh tranh lẫn nhau để lên ngôi, thậm chí có thể giết thầy mình để đoạt chức trụ trì làm Tổ.  Lục Tổ Huệ Năng đã chính thân mình trải qua những kinh nghiệm hải hùng này sau khi được bí mật truyền Pháp và tức thời xuôi Nam tránh bị ám hại dù đã được đích thân chân truyền từ Ngũ Tổ.  Ngay cả Ngũ Tổ cũng tự tay chèo thuyền đưa Huệ Năng ra khỏi chùa tức khắc sau khi bí mật truyền y pháp cho Lục Tổ.  Tại sao mình là Tổ, là sư phụ, là trụ trì, là giáo chủ mà sợ đệ tử, tín đồ như vậy?

 

Đánh cờ

 

Tác giả:  Hồ Xuân Hương

 

Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,

Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người.

Hẹn rằng đấu trí mà chơi,

Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.

Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,

Để đôi ta quyết liệt một phen.

Quân thiếp trắng, quân chàng đen,

Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.

Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,

Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.

Hai xe hà, chàng gác hai bên,

Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.

Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,

Đem tốt đầu dú dí vô cung,

Thiếp đang mắc nước xe lồng,

Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.

Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu

Thua thì thua quyết níu lấy con.

Khi vui nước nước non non,

Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.

 

Giải thích theo khoa học thì đó là những phản ứng hóa học làm tiết ra những chất lõng từ ‘nước’ mà nước là nguồn gốc của Sinh (life.)  Nước (H2O) là sự sống vạn vật kể cả con người từ nước sinh ra rồi theo chu trình tiến hóa bò lên cạn làm chúng sinh.  Nhịn đói có thể sống hơn 1 tháng chứ nhịn khát 3 ngày là hui nhị tỳ.

 

Trái ngược với chủ trương của đa số các tôn giáo, dâm dục là yêu thương tự nhiên, âm dương hòa hợp, thái âm bổ dương của vũ trụ, là cấu tạo.  Tình dục là điều cần thiết để di truyền nòi giống, là hiện hữu của vạn vật.  Tình phải đi đôi với dâm dục mới hoàn hảo vì tình không có dục hay dâm.  Không có tình dục điều độ sẽ tạo nên khủng khoảng cho sức khỏe cả tinh thần lẫn thể xác. 

 

Phật dạy, "A-nan, phần trong của chúng sinh, nhân vì lòng ái nhiễm phát khởi ra vọng tình, tình chứa mãi không thôi, có thể sinh ra ái thủy; vậy nên chúng sinh, tâm nhớ thức ăn ngon thì trong miệng nước chảy ra; tâm nhớ người trước, hoặc thương, hoặc giận thì con mắt lệ tràn; khi tâm dính vào việc dâm dục thì hai căn nam nữ tự nhiên dịch khí chảy ra. A-nan, các ái đó, tuy khác nhau, nhưng kết quả chảy nước là đồng; thấm ướt không lên được [không cao thượng để giải tỏa,] tự nhiên theo đó mà sa đọa."  

 

Đức Phật dạy, “Trong các thứ ái dục, không gì đáng ngại bằng sắc dục. Lòng ham thích sắc đẹp to lớn không gì sánh bằng. May thay, chỉ có một mình nó mà thôi. Nếu có hai thứ như thế thì khắp thiên hạ không ai có thể tu Đạo được cả!” (Kinh Phật Nói Bốn Mươi Hai Chương – Chương 24.)  Nói khác hơn, sắc đẹp làm gia tăng lòng ham muốn của dục tình nhưng sắc đẹp không phải chỉ một mình nó là nguyên nhân của sự ham muốn dĩ nhiên còn có cái thứ hai và thứ ba nữa cho nên 2600 năm rồi có bao nhiêu người tu đạo dễ mà được giác ngộ thành Phật?  Chừng 7000 người?  

 

Chẳng hạn như:

 

1. Dục ái (zh. 欲愛, sa. kāmatṛṣṇā), ham mê xác thịt.

2. Hữu ái (zh. 有愛, sa. bhavatṛṣṇā), ham muốn tồn tại.

3. Phi hữu ái (zh. 非有愛, sa. vibhavatṛṣṇā), hoặc Đoạn ái, là lòng ham muốn tiêu diệt.

Vua Trần Thái Tông, một ông vua thiền sư đời Trần trong bài “Rộng nói về sắc thân” đã nói rõ cái ô uế của sắc đẹp của thân qua các câu sau:

“Đầu sọ khô cài trâm giắt ngọc, túi da hôi ướp xạ xông hương, cắt lụa là che đậy máu tanh, dồi son phấn át thùng phân thối. Trang sức như thế trọn là gốc nhớp. Không thể nơi đây tự thẹn lại hướng trong ấy mến yêu.”

Theo Phật Giáo, sắc tướng là vô thường, bản chất của sắc tướng là vô ngã, nó tự nghiệp quả và nhân duyên mà hiện hữu không phải là thực chất.  Kinh viết: Bản chất của sắc tướng là nhơ uế. Nhìn lại hình hài một con người để thấy rõ điều này.  Theo tôi bản chất của vô sắc tướng không nhơ uế, không sạch sẽ.  Những cấu tạo của vật lý nguyên tử, phản ứng hóa học của vạn vật kể cả cơ thể con người, tự nó không dơ không sạch mà là như thị tri kiến.  Cho nên quan niệm, xấu đẹp, dơ sạch chỉ là phân biệt nhị nguyên từ vô minh mà ra chứ không phải thực tế.  Vua Trần Thái Tông là một minh quân nhưng trước khi giác ngộ, ngài đã rất biết tận hưởng sắc dục như bất kỳ những ông vua khác trên thế gian.  Cái kiến của Phật Hoàng khác với cái thấy của Howard Hughes, với bệnh compulsive disorder (OCD,) thấy toàn vi trùng, dơ bẩn nhưng vì không giác ngộ nên chết cô độc vì sợ hải và kinh tởm khi thấy tất cả mọi người chung quanh mình là nhơ uế.  Cái thiên nhãn thông của nhà tỷ phú Hughes đã hại tâm ý lẫn đời ông.  Cho nên, đột nhiên có lục thần thông trước khi phát triển đạo đức trí tuệ hại nhiều hơn lợi.

NASA đang nghiên cứu và tìm cách tái chế biến những gì thải ra từ cơ thể bạn như nước tiểu và phân thành thức ăn cho bạn và các bạn phi hành gia ăn uống trong lúc du hành trong không gian.  

Đó có thể là lý do mà NASA không muốn có phi hành gia Việt Nam vì chúng ta ăn cay, thêm mắm muối, sầu riêng, bây giờ còn ăn luôn cả Kim Chi cho nên nước tiểu và phân đó nặng mùi phải tốn nhiều thời gian để biến chế cho thích hợp với khẩu vị của các bạn Mỹ?  Đó cũng là lý do mà tôi rút đơn xin làm phi hành gia của NASA sau khi biết chuyện này.  Thà du hành trong mộng tưởng hơn là ăn cơm NASA thờ ma khoa học.  Trong tương lai, đây có thể là một phương cách để giải quyết nạn nhân mãn đói khát của con người và thú vật?  Các cụ đừng quá lo vì tới đó thì các cụ không có dịp để thưởng thức cái ‘đỉnh cao trí tuệ’ đó đâu.  Đừng quá tham sân si nên nhường lại cho con cháu nó thưởng thức.

Kim cương bất hoại: xác của một nhà sư ở trong bức tượng Phật.

Cho nên, ái dục, có thể nói là sự đam mê hệ lụy, nó không loại trừ đối tượng nào, bất kể tuổi tác, giống nòi. Cho nên, khi mà lòng dâm bị khích thích thì dục vọng sẽ khởi lên, đòi hỏi thỏa mãn, rất khó mà có thể kềm hãm được khi lửa gần rơm bất kể xấu hay đẹp.

Ái dục đã được những bật thiện tri thức phân tích rất nhiều nhưng it thấy ai tìm ra được phương pháp hửu hiệu để diệt dục vì không thể diệt được cái tập quán tự nhiên từ vô lượng kiếp của vũ trụ.  Nếu tất cả chúng ta điều diệt dục thì sớm muộn gì con người sẽ tuyệt chủng.  Nhưng đối với những thiểu số tu theo đạo giải thoát, không có con đường nào khác hơn là phải viễn ly tâm hệ lụy ái dục, từ bỏ ái dục và cuối cùng đoạn trừ ái dục để giác ngộ thoát khỏi luân hồi đau khổ.

10.                   Tạm Kết

 

Phải nên hiểu biết cái sức mạnh kinh khủng không gì ngăn cản nổi của vị kỷ và ái dục của con người để mà thích ứng hay thỏa mản.  Cố dồn ép tình dục thái quá thay vì tìm cách giải toả thì nó sẽ phản ứng trái ngược gây ra những hậu quả tại hại cho sự quân bằng của cơ thể đưa đến đau khổ cho mình lẫn bi thảm cho nhân loại.  Cho nên, vị kỷ tư lợi và thích ái ân dâm dục cũng là bản năng sinh tồn, an toàn và đẹp đẽ của chúng sinh.  Chúng ta có thể bớt tham, ít sân, giảm si, tiết dục để thích hợp và điều hòa cuộc sống chứ không thể hoàn toàn tận diệt tham sân si ái lẫn vô ngã.  Cá nhân cũng như lãnh tụ phải có tinh thần trách nhiệm với những tham vọng này, phải hiểu những căn bản vị kỷ, lợi dục có thể đưa đến những tai họa khó lường để đề cao cảnh giác mà tu thân hay trị quốc.   Bắt mình, bắt người đi ngược lại những quyền lợi kỷ ái dục tự nhiên sẽ chỉ gây ra những phản ứng, sức dồn nén, ẩn ức trái ngược cho mình cho xả hội mà thôi.  Nên thuận theo vị kỷ, lợi dục, quyền tư hữu, tự do luyến ái của cá nhân trong xả hội nhưng phải khuyến khích tư tưởng đạo đức, tôn trọng luật pháp, công dân giáo dục và tinh thần trách nhiệm cao.  Phải xử dụng hữu hiệu những vũ khí này như là những công xuất lợi ích cho cá nhân lẫn đoàn thể.

Trên phương diện tích cực với cái nhìn lạc quan, bản chất ích kỷ, tham tư lợi, và si ái dục là những nhu cầu có tác dụng kích thích và phấn khởi rất mãnh liệt trong cuộc sống nhân sinh.  Xây dựng xã hội hay giáo dục con người không phải là san lấp những dòng năng lực ấy mà là biết cách thuận theo và sử dụng nó đầy hữu hiệu để phụng sự nhân sinh lẫn chúng sinh.  

Nếu chúng ta đi sâu vào những lý giải của La Rochefoucauld thì lòng ích kỷ cũng chính là cội nguồn của sự che chở của “tình mẫu tử,” của “từ thiện,” và của “lòng bác ái.”  Và cái tính dục của Freud cũng bỗng chốc mang vẻ đẹp huyền ảo của tình yêu.  Đó là điều mà Freud gọi là sublimation (Psychology: the diversion of the energy of a sexual.) Tôi tạm dịch là ‘khoái lạc của năng dục, hay nguồn khoái lạc của tình dục.’

Tiết dục (đi ngược dòng tìm cái TỬ, chấm dứt luân hồi, tuyệt chũng) hay dâm dục (đi thuận dòng với cái SINH, tái tạo) là một sự chọn lựa đầy thử thách cho những người tu Phật.  Muốn giải thoát khỏi luân hồi đau khổ thì phải ly ái dục không cách gì khác hơn; đó là con đường Đức Thế Tôn đã tự chọn cho chính Ngài.  Có thể vì vậy mà chuyên tâm tu đạo Phật khó khăn và nhiều thử thách cho những người trẽ còn sung sức trong tình dục hơn là cho những người già không còn nhiều ham muốn tình dục.  Giải pháp trung đạo khó mà ổn thỏa cho vấn nạn này.  Đây là những đoạn đường thử thách rất cam go cho những kẽ tu hành, không vượt qua được thì đừng mong giác ngộ.  Phật gọi tu hành là đi ngược dòng đời là vậy.  Mình không tự thắng mình làm sao có thể thuyết pháp, cứu độ người khác?

Người duy nhất có đủ trí tuệ, từ bi, dũng lực tư cách và kinh nghiệm để dạy chúng ta những điều trên chính là Đức Thế Tôn.  Hiển nhiên, Ngài chỉ dạy chúng ta nguyên tắc để được may mắn thành công để giác ngộ chứ không dạy chúng ta những may mắn thành công của vị ngã tư lợi và ái dục vì đó những điều tiên quyết mà Ngài đã can đãm xả bỏ và viển ly trước khi tầm đạo.

 


 

Tài Liệu Tham Khảo

 

  1. Tham Ái Qua Lăng Kính Phật Giáo, Thích Trí Giải
  2. Quán Vô Thường Để Đoạn Trừ Tâm Tham Ái, Trí Giải
  3. Con đường Đức Phật: Sự Thật về Khổ, VietNam Dhamma Home
  4. Bát Khổ là gì?  Thích Thiện Tâm
  5. Ngũ Uẩn Giai Không, Trương Hoàng Minh
  6. Sắc dục qua cách nhìn của Đạo Phật, Ni Sư Thiền Viện Chơn Không
  7. Hòa thượng Tuyên Hóa, www.dharmasite.net

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2010(Xem: 8049)
Tronghệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động. Cũngnhư có những trang kinh đức Phật chỉ dạy phương pháp báo đáp ân đức sâudày đối với song thân một cách thiết thực nhất. Có nghĩa là đức Phật đãchỉ bày cách báo ân chơn chánh, hợp đạo lý, có lợi ích trong hiện đời và mai sau...
24/09/2010(Xem: 6874)
Nghèo khó và thịnh vượng là hai điều kiện khác nhau trong số những sự thực của cuộc sống. Bạn, tôi và những người còn lại trong thế giới này rơi vào một trong hai điều kiện ấy. Chúng ta có thể giàu hay nghèo về phương diện của cải vật chất hay phương diện tâm linh. Rõ ràng hai cụm từ này, “nghèo khó” và “thịnh vượng”, có những ngữ nghĩa khác nhau. Trước khi bàn đến những quan điểm của Phật giáo về sự nghèo khó và thịnh vượng, chúng ta cần biết chính xác về ý nghĩa của hai thuật ngữ này.
24/09/2010(Xem: 5407)
Người tham muốn ngủ nghỉ nhiều, thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường, bộ ván; ăn xong lại nghỉ chuyện đi nằm chẳng muốn làm gì hết, khi ngủ xong lại muốn ngủ nữa giống như các loài heo vậy đó, mất cả tự chủ và thể diện của mình. Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu, lười biếng, ăn không ngồi rồi. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế, tối ngày chỉ biết ăn rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng biết làm gì.
23/09/2010(Xem: 9725)
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
22/09/2010(Xem: 11052)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ.Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn làđức Bồ tát Quan Thế Âm, hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ tát này có đầy đủ phẩmchất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái timcủa những người con Phật thuần thành nhất là giới Phật tử bình dân không ai làkhông không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ tát giàu lòng bi mẫn này...
22/09/2010(Xem: 9426)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
22/09/2010(Xem: 10134)
Ngàynay,lễ Tự tứ không còn đơn thuần mang dấu ấn lớn dành cho chư Tăngtrong giới thiền môn sau ba tháng An cư kiết hạ hàng năm, mà nó đã thựcsự tác động mạnh vào đời sống đạo đức xã hội trong việc xây dựng nếpsống an lạc, hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trịcủa lễ Tự tứ là sự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhâncách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mỗi cá nhân conngười trong cuộc sống vốn biến động không ngừng... Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
22/09/2010(Xem: 8495)
Trongtấtcả mọi giá trị có mặt ở đời, thì giá trị giải thoát khổ đau làtối thượng nhất, mọi giá trị khác nếu có mặt thì cũng xoay xung quanhtrục giá trị thật này. Vu lan là ngày lễ khiến mỗi người, dù xuất giahay tại gia đều hướng tâm nguyện cầu, thực thi hạnh nguyện giải thoát.Từ điểm nhìn này, thông điệp giải thoát của lễ Vu lan đem lại có nhữngý nghĩa, giá trị cao quý mà ngày nay mọi người thường hay tâm niệm đến... Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
22/09/2010(Xem: 5438)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
21/09/2010(Xem: 6267)
Gần đây, do có nhiều hình ảnh về Mạn Đà La chụp được trong các cuộc lễ cungnghinh Phật Ngọc cầu nguyện hòa bình thế giới tại các chùa ở hải ngoại và được đăng trên một số trang mạng điện tử toàn cầu, cũng như được phổ biến qua thư điện tử, có vị đã viết bài chỉ trích cho rằng đó là “hiện tượng mê tín không nên truyền bá,” đã làm một số Phật tử hoang mang không biết đâu là thật đâu là giả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567