Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Về chùa làm công quả

05/06/201319:17(Xem: 8421)
Về chùa làm công quả
Canh_Tu_Vien_Quang_Duc (10)




VỀ CHÙA LÀM CÔNG QUẢ

Năm mươi lăm tuổi đời
Trôi qua thật là nhanh
Bốn mươi lăm tuổi lẻ
Tôi mãi bận phân tranh
Với cuộc đời nghiêng ngửa
Mười năm rồi cũng nhanh
Tôi về nương tựa Phật
Mặc cho tháng ngày xanh
Vẫn âm thầm lặng lẽ
Cùng bao nỗi đua tranh
Tôi yên bình niệm Phật
Tìm nơi chốn an lành.

Mới đó mà đã mười năm! Tôi nhớ lại khoảng tháng 8 năm 2000, trong một buổi Trai Tăng tại nhà Mai, em họ tôi, Thầy Tâm Phương đã nói với tôi: “Cuộc sống của con hiện ra sao? Nếu có thời gian, con phát tâm về chùa phụ với Ban Trai Soạn lo cho Chư Tôn Đức trong ngày lễ khai móng xây cất chánh điện vào ngày 10 tháng 12 sắp tới”.Và tôi đã nhận lời, về chùa phụ giúp.

Tôi bắt đầu về Tu Viện Quảng Đức làm công quả từ ngày 9 tháng 12 năm 2000. Những ngày đầu tiên ấy tôi chưa có ý niệm gì về hai chữ “công quả”, tôi chỉ làm những việc quý Thầy nhờ làm thế thôi. Sau hai ngày lo việc nấu nướng, khi buổi lễ kết thúc, Sư Cô Hạnh Nguyên đã nói với tôi:“Chủ nhật hằng tuần cô phát tâm về chùa nấu ăn cho Quý Thầy giùm tôi”. Lời đề nghị này cũng thích hợp vào thời điểm con cái tôi đã trưởng thành không cần phải lo lắng nhiều nên tôi đã nhận lời. Thế là từ đó hàng tuần vào mỗi ngày chủ nhật tôi đều về chùa lo việc nấu nướng cúng dường cho quý Thầy Cô, và nhờ vậy tôi mới thấy biết được những sinh hoạt trong chùa.

Tôi đã từng xót xa khi những buổi sáng sớm mùa Đông lạnh lẽo, cảnh vật chung quanh vẫn còn mờ ảo trong bóng đêm và mọi người có lẽ vẫn còn say ngủ trong chăn êm nệm ấm, Thầy Trụ Trì đã ngồi dưới mái nhà che tạm bên khu nhà Đông để kệ chuông. Giọng Thầy trầm buồn quyện vào tiếng ngân vang của Đại Hồng Chung nghe sao não nuột quá! Thầy ngồi đó chắc là lạnh lắm? Từ đó tôi biết được thời khóa công phu ở chùa, mỗi sáng quý Thầy Cô đều thức dậy vào khoảng 4 hay 5 giờ, chia nhau người thì lên chánh điện tụng Lăng Nghiêm, người thì kệ chuông. Trước kia tôi vẫn nghĩ là quý Thầy ngủ đến 7, 8 giờ mới thức.

Tôi về chùa trong giai đoạn xây cất nên thấy được quý Thầy rất là vất vả, bận rộn: Tôi nhớ có một buổi sáng tôi nấu mì cho quý Thầy ăn, khi vừa nấu xong Thầy Trụ trì chưa kịp ăn thì người thợ (người Úc) kêu Thầy trộn hồ cho họ làm, Thầy làm xong trở vô, tôi nấu tô mì khác vừa định bưng ra thì lại có người kêu Thầy làm việc gì đó, và khi tô mì làm lần thứ ba được đặt lên bàn thì Thầy than mệt quá, ăn chẳng được bao nhiêu; có hôm tôi nhìn thấy Thầy Nguyện Tạng ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã để khiêng cất những chiếc bàn đã đặt ở ngoài trời trước đó; có những buổi trưa dưới ánh nắng gay gắt của mùa hè, quý Thầy và các anh vẫn phải phơi mình để làm những công việc cần thiết…

Tôi về chùa được vài tháng, tận mắt thấy sự vất vả của Quý Thầy, thấy sự tận tụy chịu khó của các anh, các chị về phụ giúp chùa khiến cho tôi cảm động, tôi hiểu được giá trị của hai chữ “công quả”. Và tôi đã nghĩ mình cũng phải nên làm một cái gì đó hữu ích hơn là cứ ngồi nhà tụng kinh niệm Phật.

Nhớ lại mười lăm năm trước khi chồng tôi qua đời được vài ngày, một đêm tôi nằm chiêm bao thấy bị ba bóng đen rượt đuổi, tôi rất sợ hãi chạy đến đập cửa một căn nhà và người ra mở cửa cứu tôi là một Sư Bà. Giật mình tỉnh giấc tôi chợt nghĩ cuộc đời này có quá nhiều đau khổ, muốn thoát được chỉ có con đường tu hành. Với ý niệm đó tôi đã chọn cho mình con đường để đi trong những tháng năm còn lại của cuộc đời. Tuy chọn đường tu hành nhưng tôi không hề có ý nghĩ xuất gia vì trước đó tôi rất ít khi đi chùa, không biết gì nhiều về sinh hoạt ở chùa. Tôi chỉ biết giảm bớt những liên hệ bên ngoài, ngày hai thời tụng kinh, niệm Phật, lo làm việc để nuôi hai con thế thôi. Sau này đọc kinh sách, tôi hiểu được ba bóng đen trong giấc chiêm bao của tôi chính là tam độc: Tham - Sân - Si. Tôi rất vui vì nghĩ rằng Chư Phật đã gia hộ, dẫn dắt tôi, nên tôi càng quyết tâm hơn với điều mình đã chọn. Tôi đã sống và tu tập âm thầm như vậy cho đến ngày gặp Thầy Trụ Trì kêu về chùa công quả.

Nhắc lại sau hai ngày đầu tiên tôi về chùa phụ giúp nấu nướng cho lễ khai móng, trở về nhà, lúc tắm gội bất giác tôi phát hiện tóc của tôi bị rụng một cách không bình thường và tiếp theo đó cứ mỗi lần gội đầu là tóc lại rụng từng mảng, có lần nhìn tóc rụng phủ đen dưới chân, tôi đã bật khóc. Chỉ trong vòng ba tháng, tóc tôi rụng gần hết như người hói đầu khiến tôi phải đội tóc giả khi ra ngoài. Bạn bè nói với tôi rằng: “Chắc là số của bà phải đi tu rồi đó”. Câu nói đùa nhưng lại khơi dậy trong lòng tôi ý muốn xuất gia. Tôi chợt nhớ lại mấy năm về trước có lần theo mấy người bạn đi hành hương đến Tu Viện Quảng Đức (lúc chưa được xây cất), khi bước vào chánh điện lễ Phật tôi đã khóc mà không biết lý do tại sao. Ba năm sau đó, tôi theo phái đoàn của Thầy Huyền Diệu đến tu Viện Quảng Đức và một lần nữa tôi lại chảy nước mắt khi bước vào chánh điện lễ Phật. Bây giờ kết hợp với việc bị rụng tóc khi về chùa làm công quả khiến tôi suy nghĩ không biết mình có duyên gì với chùa này hay không? Và có một ngày đứng trước tôn tượng Thế Tôn tôi đã phát nguyện “Nếu thật sự con có duyên với Tu Viện Quảng Đức này, xin Chư Phật gia hộ cho con sớm lành bệnh. Con nguyện từ nay cho đến ngày con đủ duyên xuất gia, con sẽ hếtlòng về lo phụ giúp chùa này” và không biết có phải lời cầu xin của tôi được linh ứng hay không mà tóc của tôi bắt đầu mọc lại như xưa (Bác sĩ đã từng nói tóc tôi khó có thể mọc lại như trước). Từ đó tôi xem Tu Viện Quảng Đức như nhà của mình, làm tất cả những gì mình có thể làm được.

Mười năm làm công quả ở đây đã có biết bao nhiêu chuyện vui buồn, bởi tập thể nào mà không có chuyện phiền não, thị phi? Người xưa từng nói: “Đường Đạo cũng có nhiều chông gai đá nhọn, nếu không thể dẹp bỏ được thì phải tự sắm cho mình một đôi giày và bước đi những bước thật cẩn thận để không bị đau bởi chông gai đá nhọn” lời nói này có lý nhưng không thể là tuyệt đối. Bởi đôi khi có những việc xảy ra cho mình là do nghiệp duyên của mình tạo, nên làm sao mình tránh được. Tôi chỉ nhờ vào lời phát nguyện nên dù thế nào tôi vẫn phải luôn giữ vững cái tâm ban đầu của mình. Nhờ vậy mà đến ngày hôm nay tôi mới có thể tận mắt chứng kiến sự thành tựu của công trình xây dựng Tu Viện Quảng Đức.

Có được sự thành tựu này phải nói là nhờ công đức, phước báu và công khó của hai Thầy Chánh và Phó Trụ Trì. Có lần nói chuyện với Sư Cô Nguyên Khai, tôi đã nghe Cô tâm sự: “Cúng dường cho vị nào thì tiếc chứ cúng cho Thầy Tâm Phương thì không, bởi Thầy có một mà làm tới hai ba”. Quả thật đúngnhư vậy, mười năm qua theo cái thấy biết của tôi, đôi lúc chùa không đủ tiền trả tiền bill, Thầy phải hỏi mượn nơi này, nơi khác, nhưng công trình xây dựng vẫn được tiếp tục. Quý Thầy đã phải cưu mang bao nhiêu điều lo lắng, chịu bao nhiêu lời trách móc cũng chỉ là để có được sự thành tựu ngày hôm nay, điều mà tôi cũng không thể ngờ được. Thân mang bệnh, nhưng Thầy Trụ Trì đã không thể vì mình mà bỏ dở tâm nguyện, tạo dựng cơ sở cho thế hệ mai sau có nơi tu tập để Phật Pháp được trường tồn. Thầy Phó Trụ Trì Nguyên Tạng thường nói trong các buổi giảng chủ nhật rằng: “Chúng ta là thế hệ đầu tiên trong việc đặt nền tảng cho Phật giáo trên xứ Úc này, nên chúng ta phải hy sinh, phải chịu thiệt thòi để có cơ sở vững chắc cho thế hệ con cháu của chúng ta sau này có nơi chốn tu tập, hành trì giáo Pháp Phật”.

Tâm nguyện của Quý Thầy ngẫm lại cũng giống như chúng ta. Ngoài đời khi chúng ta mới đến Úc, chúng ta cũng đã phải bươn chải chịu hy sinh đủ điều cốt để tạo dựng nhà cửa, tiện nghi cho con cháu chúng ta bây giờ được thảnh thơi chuyên tâm học hành và tự tạo dựng thêm những cái gì tốt đẹp hơn cho chúng. Mười năm, hai mươi năm nữa chúng ta cũng có thể ngồi yên niệm Phật, mỉm cười nhìn con cháu chúng ta thong dong đến chùa tu tập, học hỏi Phật pháp chứ không phải vất vả như chúng ta. Lúc ấy ta mới thấy được sự hy sinh cao cả của quý Thầy, và của chính chúng ta hôm nay là chánh đáng.

Tôi rất vui bởi duyên lành nào đó đã xui khiến tôi chọn nơi này để tập bước từng bước một trên con đường tu tập của mình. Mười năm qua tuy bận rộn nhưng tôi đã học được rất nhiều điều. Tất cả những chuyện vui buồn đều là những bài học quý giá tôi luyện cho bản thân tôi.

Xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô đã tạo cho con những cơ hội được làm việc và chỉ dạy để con học hỏi thêm. Xin cảm ơn các bạn đồng đạo và các con tôi đã thông cảm và hỗ trợ để tôi hoàn thành tâm nguyện hộ trì Tam Bảo. Con cũng trân quý những chướng duyên trong đời sống này, bởi qua đó con mới có dịp suy gẫm về lý nhân quả, để từng bước thực tập hạnh nhẫn nhục, để tâm mình được bình lặng hơn. Hy vọng một ngày nào đó không xa, đá tuy không thể mềm nhưng chân con đủ cứng để không bị đau đớn bởi sự va chạm, để vững bước trên đường tìm đến bến bờ giải thoát, xin mười phương Chư Phật từ bi gia hộ cho con.

Hôm nào nghe Thầy giảng
Lời Phật dạy năm xưa
Muốn thoát lìa sanh tử
Phải dứt nghiệp duyên thừa
Nên lòng con hoan hỷ
Chấp nhận mọi lỗi xưa
Được đáp trả kiếp này
Rồi từ nay xin chừa
Để đời sau nhẹ nhõm
Kết duyên cùng Đại Thừa
Tu hành luôn tinh tấn
Tìm lần về nhà xưa.


Melbourne, Xuân Canh Dần 2010

Thanh Phi


----o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/11/2017(Xem: 7800)
Mưa nhẹ trong đêm. Lắng tai thật kỹ mới nghe được tiếng rơi tí tách bên ngoài qua khung cửa kiếng đóng kín. Hàng cây cao rũ lá ướt trên các nhánh khô gầy đầu thu. Đèn đường lặng soi trên những vũng đọng. Côn trùng im tiếng. Không có tiếng đập cánh của chim đêm. Không có tiếng chân người dẫm xào xạc trên lá. Cũng không có tiếng động cơ nào của xe cộ trên đường. Hơi thở nhẹ như tơ trời. Nhẹ như hư không.
14/11/2017(Xem: 11765)
Dưới đây là bài phỏng vấn Giáo sư Trung Quốc Ji Zhe (汲 喆/Cấp Triết) về tình trạng Phật giáo ngày nay tại quê hương của ông. Bài phỏng vấn được đăng trên nhật báo "Le Monde" của Pháp ngày 9 tháng 9 vừa qua với tựa: "Đức Phật mặc áo màu đỏ" (Bouddha en habit rouge), và đồng thời cũng được đưa lên trang mạng của tờ báo này, nhưng lại mang tựa khác: "Tại Trung Quốc, chính quyền công cụ hóa Phật giáo đổi mới" (En Chine, le pouvoir instrumentalise le renouveau bouddhiste).
10/11/2017(Xem: 8790)
Trong các tổ chức, cộng đồng, quốc gia trên thế giới, nơi nào cũng có phép tắc luật lệ riêng mà thành viên thuộc các tổ chức đó hay người dân thuộc cộng đồng hay quốc gia đó bắt buộc phải tuân thủ. Mục đích của luật lệ là nhằm giữ cho cộng đồng có được trật tự, ngăn ngừa giảm thiểu những tai ương tội ác do kẻ xấu cố tình gây ra.
05/11/2017(Xem: 7821)
Hành Trình Về Con Đường Giáo Dục Của Phật Giáo, Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về. Trên từ những vị xuất gia, dưới đến vua, quan và thứ dân, ai ai cũng một lòng quy ngưỡng về giáo lý thậm thâm vi diệu ấy. Mục đích chính của việc tu tập là thoát ly khỏi cảnh giới khổ đau nầy, để trở về với bản lai diện mục thanh tịnh, giải thoát của mỗi người. Đức Phật cũng đã từng nói rằng: “Ta chỉ là một Đạo Sư”, nghĩa là một kẻ dẫn đường. Kẻ dẫn đường ấy chính là Thầy của chúng ta và bất cứ ai trong đời nầy dẫn được ta đi vào Đời hay vào Đạo đều là Thầy của chúng ta cả.
30/10/2017(Xem: 11562)
Giữa tháng 9 năm 2017, chúng tôi đi Paris, nước Pháp, để thăm gia đình và bạn bè, đã 10 năm chưa có dịp gặp lại. Thi và tôi đã để ra 3 ngày đi thăm vợ chồng người bạn của Thi khi còn học ở trường Trung học Gia Long - Saigon, vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Chị Hồng và anh Ngọc đang ở tại thành phố Oberhausen. Đây là thành phố nằm trong vùng kỹ nghệ sông Ruhr thuộc tiểu bang NordRhein- Westfalen, phía Tây-Bắc nước Đức.
30/10/2017(Xem: 10194)
Dưới đây là bài viết của Lạt-ma Denys tóm lược một số các bài thuyết giảng của chính tác giả tại ngôi chùa Tây Tạng Karma Ling, tọa lạc trong vùng núi Alpes trên đất Pháp. Bài viết nêu lên một sự hiểu biết mang một tầm quan trọng vô song trong Dharma/Đạo Pháp của Đức Phật, đó là khái niệm "Tương liên, tương tác và tương tạo" giữa tất cả mọi hiện tượng dù vô hình hay hữu hình, thuộc thế giới bên ngoài hay bên trong tâm thức một cá thể. Tiếng Pa-li gọi khái niệm này là Paticca-samuppada, tiếng Phạn là Pratitya-samutpada, tiền ngữ "pratitya" có nghĩa là "lệ thuộc vào" [một thứ gì khác], hậu ngữ "samutpada" có nghĩ là "hiện lên" hay "hình thành"..., Các ngôn ngữ Tây Phương gọi khái niệm này là: Interdependence, dependent origination, dependent arising, dependent co-production, conditioned co-production, conditioning co-production, v.v.; kinh sách Hán ngữ gọi là "Lý duyên khởi". Có thể tạm dịch sang tiếng Việt là "Nguyên lý tương liên, tương tác và tương tạo", tuy nhiên cũng có thể gọi vắn
27/10/2017(Xem: 10512)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ. Nhỏ như chuyện bất hoà khó chịu xảy ra liên tục với người xung quanh. Nhỏ như yêu thương người này ghét bỏ người kia một cách tự nhiên, hay người này cực khổ chăm sóc nuôi dưỡng người kia mà bị người kia càm ràm nặng nhẹ gây khó dễ hết chuyện này sang chuyện khác, hoặc chính bản thân mình đau ốm bệnh hoạn triền miên chạy chữa khắp nơi mà không dứt bệnh. Lớn như chuyện con cái trong nhà không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, ra ngoài xã hội quậy phá phạm luật chịu cảnh tù tội khiến kẻ làm cha làm mẹ chịu nhiều lo âu và đau khổ.
26/10/2017(Xem: 9992)
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo. Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông. Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngà
23/10/2017(Xem: 29517)
Tin vui: Tế bào ung thư bị tiêu diệt trong 42 ngày bằng ly nước ép đã thành công ngoài mong đợi, cả thế giới đang mở tiệc để ăn mừng, Rudolf Breuss đã dành cả cuộc đời để tìm cách chữa bệnh ung thư và cuối cùng vị nhân sĩ người Áo này đã thành công.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]