Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo đức y sinh và quan điểm PG

26/03/201319:51(Xem: 8697)
Đạo đức y sinh và quan điểm PG
hoa_sen
ÐẠO ĐỨC Y SINH 
TỪ MỘT QUAN ĐIỂM PHẬT GIAO 

Shoyo Taniguchi 

Đăng Nguyên, dịch
Giới thiệu
Sự phát triển của khoa học y sinh hiện đại và công nghệ sinh học đã tạo ra những tình huống phức tạp mà chúng đang gia tăng mạnh mẽ mỗi ngày. Những tình huống này đưa ra những nan đề đạo đức lớn hơn bao giờ hết. Xã hội và loài người đang đương đầu với những nan đề đạo đức sâu sắc, cần đến một lĩnh vực đạo đức hoàn toàn mới, được gọi là “đạo đức y sinh”(biomedical ethics). Trong những năm gần đây phân ngành mới này đã phát triển nhanh hơn những phân ngành khác. Ngày nay đạo đức y sinh là một đề tài tranh luận thường thấy giữa những nhà đạo đức học, cũng như ở trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Chúng ta có thể tìm thấy một lượng tài liệu đồ sộ ở đó các tác giả đã dẫn quan điểm của Thiên Chúa giáo cho việc quyết định những vấn đề đạo đức y sinh. Vô số sách vở và các bài viết đã tạo nên những đóng góp trực tiếp và gián tiếp đáng kể đối với xã hội hiện thời. Những bình luận, ý kiến và đề nghị thường xuyên được các phương tiện truyền thông đại chúng đề xuất với những nhà thần học chuyên về đạo đức của Thiên Chúa giáo; và các phương tiện truyền thông đã nhận được những sáng kiến để đưa ra quan điểm của họ khi có cơ hội, và nỗ lực tích cực giải quyết những vấn đề đạo đức y sinh hiện thời.

Ngược lại, thật khó khăn để tìm thấy những đóng góp của Phật giáo cho việc giải quyết những vấn đề y sinh này. Có thể có những lý do chính đáng khiến các Phật tử không tham gia vào những thảo luận này. Tuy nhiên, sự im lặng của các Phật tử về những vấn đề y sinh không có nghĩa rằng Phật giáo không đủ khả năng cung cấp những câu trả lời cho các vấn đề này. Tôi mạo muội khẳng định rằng Phật giáo có đủ khả năng trình bày một giải pháp vững chắc và phổ quát đối với đạo đức y sinh hiện nay. Như quan điểm của Thiên Chúa giáo đối với đạo đức y sinh có gốc rễ ở nơi thần học Thiên Chúa giáo, Phật giáo có quan điểm của riêng mình đối với đạo đức y sinh. Có những nguyên tắc đạo đức trong Phật giáo có thể dễ dàng được áp dụng. Bằng việc áp dụng những giáo lý Phật giáo, những học thuyết, nguyên tắc đạo đức, nhân chủng học và triết học một cách đầy đủ, tôi sẽ nỗ lực tìm ra quan điểm Phật giáo đối với một vài vấn đề y sinh chính yếu, chẳng hạn như vấn đề phá thai, tự tử, sự tránh thai, sự thụ thai trong ống thủy tinh, bí mật của bệnh nhân/bác sĩ, và phẩm chất của đời sống.

Mục đích của bài viết này nhằm thu hút sự chú ý của những học giả Phật giáo vào những thảo luận nghiêm túc về những vấn đề y sinh hiện nay. Bài viết này nỗ lực giải quyết những vấn đề này bằng việc sử dụng một vài nguyên tắc Phật giáo.

Phá thai
Phá thai (abortion) là gì?

Phá thai được chia làm hai loại: phá thai tự phát và phá thai do kích thích. Phá thai tự phát thường được đề cập như là sẩy thai (miscarriage), điều nằm ngoài phạm vi đạo đức. Phá thai bằng kích thích được phân làm hai loại: phá thai trị liệu và phá thai không có trị liệu. Phá thai trị liệu bằng kích thích là một tiến trình y học được một bác sĩ có giấy phép hành nghề thực hiện khi có một nguy cơ đe dọa tính mạng của người mẹ, và thường được xem là một việc làm hợp pháp. Phá thai bằng kích thích không có trị liệu thì bị luật pháp cấm, nhưng về sau được hợp pháp hóa ở một vài nơi. Mặc dù phá thai bằng kích thích không trị liệu hiện được luật pháp bảo vệ (tại một số nơi), các nhà đạo đức học vẫn còn đang tranh luận vấn đề đạo đức của nó. Từ một quan điểm Phật giáo, cả phá thai trị liệu và phá thai không trị liệu đều có thể tranh luận. Tuy nhiên, chúng ta hãy thảo luận về giá trị của việc phá thai không vì mục đích trị liệu từ một quan điểm Phật giáo.

Về tiến trình phát triển của một bào thai, kinh Mahātaṇhāsankhaya giải thích như sau: sự thụ thai chỉ xảy ra bằng một sự kết hợp thành công của ba nguyên nhân và điều kiện: (1) sự kết hợp của tinh trùng và trứng, (2) thời kỳ rụng trứng của người mẹ, và (3) sự có mặt của thức.Theo quan điểm này, một đời sống mới bắt đầu tại lúc thụ thai. Tuy nhiên cũng cần nói thêm rằng, mặc dù bào thai này còn nhỏ và non nớt so với một người lớn, Phật giáo cho rằng ở nơi bào thai này tất cả những thuộc tính vật lý và tâm lý là đã tiềm tàng, mặc dù chưa phát triển đầy đủ. Về mặt này, sinh linh được gọi là bào thai này là một con người khác, có đủ tất cả hiện tượng tâm-vật lý. Như vậy, theo Phật giáo, phá thai được xem như là một hành động tước đoạt mạng sống của một chúng sinh.

Tại sao Phật giáo không khuyến khích việc đoạt lấy mạng sống của một chúng sinh. Đó là bởi vì, theo Đức Phật, đối với mọi chúng sinh, thứ yêu quý nhất là mạng sống của chính mình. Tất cả chúng sanh sợ đau đớn, sợ tổn hại và khổ đau; và tìm kiếm sự an ổn và không sợ hãi. Đây là một trong những giáo lý căn bản nhất có thể áp dụng cho tất cả những vấn đề y sinh. Trong tất cả mọi chúng sinh, cho dù ở bên ngoài hay còn ở trong bụng, cho dù là con người hay không thuộc loài người, thứ yêu quý và quý giá nhất là mạng sống của chính mình. Đoạt mạng sống của một kẻ nào đó là bạn chấp nhận quan điểm rằng một vài người khác có thể đoạt mạng sống của bạn trái ngược ý muốn của bạn. Trong Phật giáo, bởi vì điều này không phải như vậy, nên việc tước mạng sống không được xem là một hành động đúng đắn. Phật giáo sử dụng thuật ngữ thiện (kusala) và bất thiện (akusala) thay vì đúng và sai.

Trong Phật giáo, hành vi “sai” được gọi là hành vi bất thiện, bởi vì nó luôn mang lại khổ đau như là kết quả của nó. Đạo đức học Phật giáo không thảo luận những đức hạnh vì mục đích đạo đức. Chúng ta không thể tìm thấy những khái niệm tội lỗi hay xấu xa thuộc bản thể học trong đạo đức học Phật giáo. Như vậy, những hành vi bất thiện không được khuyến khích vì chúng đưa đến khổ đau.

Hành vi gây hại
Trong khi khuyên Sa-di Rahula (La-hầu-la), Đức Phật dạy rõ ràng tiêu chuẩn của hành vi thiện (kusala kamma-nghiệp thiện) và hành vi bất thiện (akusala kamma-nghiệp ác) như được ghi lại trong Trung bộ kinh. Bảng tiêu chí được trao cho Rahula được phân thành hành vi bất thiện (akusala kamma) và hành vi thiện (kusala kamma) là như sau:

1. Hành vi bất thiện (akusala kamma)
a) những hành vi làm hại chính mình
b) những hành vi làm hại kẻ khác
c) những hành vi làm hại chính mình và kẻ khác

2. Hành vi thiện (kusala kamma)
a) những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) chính mình
b) những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) kẻ khác
c) những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) mình và kẻ khác.

Đây là những nguyên tắc đạo đức căn bản nhất của Phật giáo mà các Phật tử có thể áp dụng cho bất kỳ sự quyết định nào.

Phá thai có thể mang lại sự nguy hiểm vật lý cho người phụ nữ qua sự xuất huyết, vô sinh hay nhiễm trùng. Bên cạnh thiệt hại vật lý, phá thai nghiêm trọng hơn làm hại sức khỏe tâm lý của người phụ nữ, tạo nên khổ đau tinh thần qua việc hối hận, tự trách, dằn vặt, tức giận, thất vọng, sợ hãi, căm ghét, suy nhược và hối tiếc. Phá thai không chỉ làm hại chính người phụ nữ đó, mà cũng có thể làm hại người khác. Ví dụ, những thiệt hại về tâm-sinh lý có thể ảnh hưởng đến gia đình của người phụ nữ đó. Xa hơn và quan trọng hơn, bào thai bị làm hại là tầm mức sau cùng.

Trong Phật giáo, điều được gọi là “con người” được trình bày bằng thuật ngữ danh-sắc (nāmarūpa), hay là một sự kết hợp tâm-vật lý, được kết hợp bởi yếu tố vật chất (rūpa) và yếu tố phi vật chất (nāma). Tất cả mọi chúng sanh được kết hợp bởi tâm và thân. Trong Phật giáo, khi tâm và thân đang hoạt động thì có mặt một chúng sanh. Mỗi khi thức hoạt động thì ái (taṇhā) có mặt, ngoại trừ một người giác ngộ. Mỗi khi tham ái có mặt thì có sợ hãi. Ở đâu có sợ hãi thì khổ đau xuất hiện. Vì vậy, bất kể là một chúng sanh nhỏ bé thế nào, chẳng hạn như một con kiến, mỗi khi chúng sanh này có thức, thì sợ hãi và khổ đau mà nó nếm trải khi bị hại là không nhỏ hơn khổ đau của những chúng sanh khác. Tương tự như vậy, trong thức của một bào thai, tham ái, sợ hãi và khổ đau cùng sanh khởi khi nó bị hại.

Từ quan điểm Phật giáo, dường như rằng, qua việc thực hiện phá thai, một người mẹ đang tạo nên một sự khổ đau và sợ chết ở trong bào thai. Sự thật, bào thai chính là kẻ nhận lãnh sự đau đớn và sợ hãi về tâm lý và vật lý lớn nhất. Xem xét sự việc bằng việc sử dụng tiêu chí Phật giáo này, phá thai là một hành động làm hại chính người phụ nữ và những kẻ khác. Nó có thể được xếp vào loại hành vi bất thiện (akusala kamma-nghiệp ác) nhất trong ba loại nghiệp bất thiện. Điều này có thể chỉ là sự áp dụng một chiều tiêu chí hành vi thiện và bất thiện. Mỗi tình huống là khác nhau, vì vậy chúng ta cần thảo luận thêm về chủ đề này.

Luật Nghiệp quả
Một trong những lý do quan trọng và cụ thể nhất của Phật giáo đối với việc không khuyến khích phá thai xuất phát từ học thuyết Nghiệp. Trong Phật giáo, ý nghiệp được xem xét cẩn thận hơn thân nghiệp và khẩu nghiệp. Đức Phật dạy rõ rằng, “ý chí (cetanā-tác ý)là nghiệp (kamma)”. Theo luật Nghiệp, để thực hiện hành vi sát hại hay bất kỳ hành vi bất thiện nào khác, người ta bị thúc đẩy bởi tham, sân và si. Hành vi bất thiện có gốc rễ ở nơi một hay tất cả những trạng thái cảm xúc bất thiện ở trên. 
Mỗi khi người ta thực hiện hành vi này lại, người ta làm tăng cường độ của những cảm xúc tiêu cực căn bản đó. Do vậy khuynh hướng để thực hiện hành vi bất thiện trở nên mãnh liệt hơn. Đây là tiến trình tiếp thu một thói quen tiêu cực. Theo thuật ngữ Phật giáo, điều này được gọi là “huân tập ác nghiệp”, mà nó sẽ tạo nên kết quả khổ đau và bất hạnh cho người ta. Về mặt này, học thuyết Nghiệp là “học thuyết về nhân và quả, về hành động và phản ứng; nó là một luật tự nhiên, mà không có điều gì để làm với quan điểm công bằng hay thưởng công và trừng phạt”.

Phật giáo dạy rằng người ta sẽ trở thành kẻ thừa kế những gì mà họ tạo ra. Chúng ta là kẻ sáng tạo ra chính mình. Người hành động thiện hay bất thiện là người nhận lấy những kết quả của hành động. Trong trường hợp phá thai, chính người phụ nữ sẽ nhận lãnh kết quả nghiệp của mình.

Bào thai thuộc về ai?
Vấn đề phá thai đôi khi được thay bằng vấn đề quyền của người phụ nữ đối với đời tư. Phật giáo dạy rằng quan niệm về “thân thể của tôi” là kết quả của vô minh (avijjā). Theo Phật giáo (nhân chủng học Phật giáo), một con người được kết hợp bởi sáu yếu tố: chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, sự chuyển động, khoảng không và thức. Tất cả những điều này là tương thuộc, tương đối, có điều kiện và luôn thay đổi. Chỉ một tiến trình suy nghĩ khiến chúng ta thấy rằng “Tôi” tồn tại, hay rằng “đây là thân thể của tôi.” Quan niệm về “thân này thuộc về tôi” chỉ là một khái niệm diễn đạt mà nó sanh khởi bằng điều kiện tác động tương thuộc của một giác quan vật lý và một đối tượng giác quan. Trong thực tế, không có thứ gì hiện hữu để ta có thể tuyên bố là “của tôi”.

Bởi vì ngay cả “thân thể của tôi không thuộc về tôi”, thế thì làm sao người ta có thể nói rằng “một bào thai thuộc về tôi”? Cha mẹ chỉ cung cấp cho một bào thai nền tảng vật chất. Kinh Pháp cú nói rằng sự ảo tưởng khiến người ta cho rằng thân này thuộc về chính mình, hay đứa con của ta thuộc về ta. Nếu một phụ nữ có thể tuyên bố rằng quyền của người phụ nữ đối với việc sử dụng thân thể mình trong trường hợp phá thai, nói “bào thai thuộc về tôi, bởi vì nó nằm trong bụng tôi, do đó tôi có thể làm bất cứ những gì tôi muốn làm đối với nó,” thì cô ta cũng có thể tuyên bố quyền tước đoạt mạng sống của đứa trẻ một ngày tuổi, một năm hay hai năm tuổi, nói, “đứa trẻ này thuộc về tôi, đây là của tôi. 
Vì vậy tôi có quyền giết nó.” Trong thực tế, điều này không phải như vậy. Tước đoạt mạng sống bên trong bào thai, như là trái ngược với ở bên ngoài bào thai, tương tự với tình huống của một kẻ sát nhân thực hiện hoặc bên trong hay bên ngoài một ngôi nhà - không có sự khác biệt trong bản chất. Quan điểm Phật giáo cho rằng không có sự khác nhau về phẩm chất cốt yếu giữa một bào thai một ngày, một hài nhi một ngày tuổi và một cậu bé 15 tuổi. 
Điều này muốn nói rằng phụ nữ không có quyền làm bất cứ những gì cô muốn đối với bào thai của chính mình.

Một phương cách Phật giáo
Phá thai ở một vài trường hợp được biện minh bởi một vài nhà đạo đức hiện đại. Họ biện luận rằng khi một người mang thai ngoài ý muốn và bào thai không được dự tính, phá thai vì “lý do hệ trọng” không nên bị kết tội. Những lý do mà họ khẳng định là: bị hãm hiếp hay loạn luân, sự tránh thai không hiệu quả, sự khiếm khuyết gien ở trong người con, hay sự khó khăn kinh tế. Họ nói rằng phá thai vì những lý do này “không nên bị kết tội”.

Cho phép kết thúc đời sống của một bào thai có mặt bởi hãm hiếp hay loạn luân, nơi bạo lực khởi đầu đời sống, là cho phép một loại bạo lực khác đối với con người khác. Như sẽ được thảo luận về sau, trong Phật giáo, phương pháp tránh thai hiệu quả được khuyến khích khi một cặp vợ chồng không muốn có con cái. Như vậy, sự không thành công trong tránh thai, hay do vì cha mẹ hay chính phương pháp tránh thai, không thể được sử dụng chống lại bào thai. Bằng ngôn ngữ đơn giản, bào thai không nên chịu đau khổ vì sự thất bại của người khác.

Từ một quan điểm Phật giáo, những vấn đề về phá thai về cơ bản là một vấn đề của một đời sống yên ổn hay một đời sống khó khăn dành cho phụ nữ. Nó là một vấn đề sống hay chết dành cho một bào thai. Từ những thảo luận ở trước, rõ ràng phương cách Phật giáo là xem xét những giải pháp khả dĩ khác thay vì phá thai. Phương cách Phật giáo là tìm ra một lựa chọn ít thiệt hại nhất cho cả hai phía - trong trường hợp này là người mẹ và đứa trẻ. Bởi vì phá thai là vấn đề tuyệt đối không được khuyến khích, những vấn đề nên được xem xét, thảo luận và hành động theo đó là những lựa chọn khác, chẳng hạn như cho làm con nuôi, sự trợ giúp từ những thành viên trong gia đình và những tổ chức xã hội v.v...

Giải pháp từ bi của Phật giáo đối với người phụ nữ, người đang nghĩ về phá thai, là trao cho người này sự hiểu biết đúng và thông tin đầy đủ về những sự thật của phá thai, một bào thai, luật nghiệp báo, giá trị và phẩm chất của đời sống con người, và hiểu biết đầy đủ về những lựa chọn khả dĩ khác. Nó không thể nhất thiết là tiện lợi hay dễ chịu, và có thể là khó khăn cho người phụ nữ hiểu và chấp nhận. Nhưng điều này sẽ trao cho cô ta thêm những phương tiện để phân tích tình huống đúng đắn. Trong Phật giáo, món quà của sự hiểu biết đúng đắn được xem như món quà lớn nhất trong tất cả những món quà, vượt qua bất kỳ món quà vật chất nào.

Tránh thai
Trong thế giới hiện đại, tránh thai giữ một vai trò quan trọng trong tiến trình hoạt động tình dục của con người. Ở đây chúng ta có thể sử dụng học thuyết Nhân quả hay học thuyết Duyên khởi của Phật giáo. Nguyên lý của học thuyết này được trình bày bằng thể thức bốn dòng ngắn: “Khi cái này có mặt, cái kia có mặt. Khi cái này sanh, cái kia sanh. Khi cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Khi cái này diệt, cái kia diệt.” Diễn đạt một cách đơn giản, có nghĩa rằng khi nhân và duyên cùng tồn tại, sẽ có một kết quả. Nếu các nhân và duyên không tồn tại, không có kết quả.

Từ lời dạy này, có thể để đưa ra kết luận sau: Nếu một người không muốn có một quả nào đó được quy định bởi các nguyên nhân nào đó, người ấy nên ngăn chặn các điều kiện cần thiết đừng để chúng kết hợp với nhau. Ngăn chặn những kết quả không mong muốn là một hành động thiện xảo trong Phật giáo. Không giống như Thiên Chúa giáo, Phật giáo không dạy việc sinh sản như là mục đích cốt tủy của việc kết hôn. Trong Phật giáo, hoạt động tình dục của con người chỉ là một sự cố gắng làm thỏa mãn ham muốn nhục dục (kāma). Ham muốn nhục dục được tạo ra bởi sáu giác quan là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. 
Sự kết hợp của người nam và người nữ hay hai thân thể vật lý trong hoạt động tình dục là kết quả của sự ham muốn (tanha) này nhằm làm thỏa mãn các giác quan, bao gồm cả tâm. Ngay cả nhu cầu để có một đứa con là một sự mở rộng của một sự tham muốn (tanha) này. Như vậy, không có ý nghĩa cụ thể được quy cho việc sản sinh trong Phật giáo. Điều quan trọng trong Phật giáo là rằng tinh trùng và trứng thì không được xem như các sinh linh. Chúng có khả năng để tạo ra một đời sống bằng việc kết hợp với nhau, nhưng chính chúng thì giống như một que diêm và một hộp diêm. Ngọn lửa phát sinh chỉ với hành động xát vào nhau của hai vật này.

Do đó, dựa trên học thuyết Nhân quả, ngừa thai không thể được xem như là hành động tước đoạt mạng sống. Như chúng ta đã thảo luận ở trước, theo giáo pháp căn bản của Phật giáo, phá thai rõ ràng không được khuyến khích, trong khi mặt khác, ngừa thai có thể được chấp nhận. Ngăn chặn các nguyên nhân và điều kiện của việc thụ thai bằng việc sử dụng ngừa thai vô hại có thể đáng ca ngợi hơn là để mang thai và sau đó phá thai. Trong những trường hợp này, ngừa thai có chủ ý có thể được xem như một hành động đúng và khôn ngoan.

Cấy ghép phôi, thụ tinh trong ống thủy tinh và thụ tinh nhân tạo
Theo lý thuyết khoa học về thụ thai, sự kết hợp của một tinh trùng và một tế bào trứng là nguyên nhân duy nhất cho một đời sống mới. Sự sinh sản tuỳ thuộc “nhiều vào cơ may là một cái trứng tốt có gặp một tinh trùng tốt hay không”. Khoa học đưa việc sinh sản xuống thành một cơ may. Nói cách khác, khoa học không trả lời câu hỏi là tại sao ngay cả những cái trứng được thụ tinh không phải luôn tạo ra một đời sống mới.

Nhưng theo Phật giáo, như được đề cập ở trước, sự kết hợp của những yếu tố vật chất của một tinh trùng và một tế bào trứng thì chỉ là một nguyên nhân cho một đời sống mới; không có sự tham gia của thức - cũng được gọi là thân trung ấm(gandhabba) - một đời sống mới không thể được hình thành. Phật giáo không quy may rủi cho bất cứ hiện tượng nào. Phật giáo không xung đột trong việc áp dụng những phát triển khoa học đối với việc sinh sản, nhưng Phật giáo cho rằng mọi hiện tượng tùy thuộc vào nhân quả. Mỗi khi tất cả những nguyên nhân và điều kiện cho sự bắt đầu một đời sống mới cùng tồn tại, luôn có một kết quả tất yếu của nó. Có thể thụ tinh một tế bào trứng trong một ống thủy, làm cho nó trở thành một không gian có điều kiện tương đương giống như một bào thai nhân tạo, một thai nhi có thể phát triển ở đó.

Nếu một cặp vợ chống muốn có một đứa trẻ, miễn là công nghệ không làm hại những thành phần liên quan, những gì họ có thể làm là cung cấp những nguyên nhân và điều kiện đúng bằng việc sử dụng những kiến thức khoa học và công nghệ hiện đại. Miễn là công nghệ đem lại lợi ích cho những cặp vợ chồng mong muốn có con, và miễn là nó không mang khổ đau đến cho những bên liên quan, Phật giáo không nhận thấy có sự xung đột trong việc áp dụng và sử dụng công nghệ y sinh hiện đại. Đây là một quan điểm căn bản của Phật giáo.

Tự sát
Tự sát đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt trong giới trẻ. Tuy nhiên, tự sát không phải là một vấn đề mới mà nó đã được ghi nhận suốt lịch sử loài người. Nó đã được các triết gia và những nhà thần học như Aristotle, Thomas Aquinas, và Immanuel Kant thảo luận. Chẳng hạn, với Aristotle, tự sát là “bất công” đối với người khác, mà không phải đối với bản thân người tự sát. Khẳng định của ông được đặt cơ sở trên quan điểm rằng người ta không bao giờ đối xử bất công đối với bản thân và rằng một sự bất công là một hành động được thực hiện với chính mình ngược lại ý muốn của người khác. Aristotle nghĩ rằng tự sát không thể bất công đối với người tự sát, bởi vì nó là một hành động tự nguyện. Ông tin rằng người ta không thể làm hại bản thân một cách cố ý.

Từ cái nhìn Phật giáo, tự sát bắt nguồn từ tham, sân và si: 
1/ Người ta có thể bị thúc đẩy bởi lòng tham mong muốn một sự hiện hữu tốt hơn; 
2/ Vị ấy có thể bị chi phối bởi sân hận đối với những điều kiện hiện tại của đời sống; hay 
3/ Không có sự hiểu biết rõ ràng và đầy đủ về những điều kiện hiện hữu. Tất cả những điều này có gốc rễ sâu xa nơi vô minh, thiếu sự hiểu biết rõ ràng về tình huống.

Do đó, mặc dù Aristotle nghĩ rằng tự sát là công bằng bởi vì sự tự nguyện của nó, đối với Phật giáo, nó là không. Những người vô minh có thể làm hại chính họ với một sự ý thức rõ về những gì họ đang làm. Sự tự nguyện chính nó không “biện minh” cho một hành động. Với Kant, người cố gắng chứng minh rằng những nguyên tắc đạo đức căn bản sẽ luôn nhất quán, thì tự sát là một vấn đề đạo đức, bởi vì Kant nghĩ rằng một người thực hiện tự sát cho rằng “quan tâm chính mình” cần phải “hủy diệt chính mình”.

Từ một cái nhìn Phật giáo, những gì mà một người thực hiện tự sát mong muốn chấm dứt không phải là mạng sống của người ấy, mà những khổ đau, thất vọng, tai ách, hay những khổ đau thân tâm khác mà người ấy nếm trải. Người thực hiện tự sát nhầm lẫn hai điều này (chấm dứt đời sống và chấm dứt khổ đau). Theo giáo pháp Phật giáo, “quan tâm chính mình” đúng đắn chỉ xuất phát từ không tham, không sân và sự vắng mặt của vô minh. Yêu bản thân đúng đắn không bao giờ đi hủy diệt bản thân. Một bằng chứng rõ ràng về trường hợp này là: nghiên cứu hiện đại về tự sát chứng minh rằng trong nhiều trường hợp tự sát, người ta không muốn chết cũng không muốn giết chính họ. Từ những thảo luận ở trên, rõ ràng rằng Phật giáo xem ước muốn tự sát là một nghiệp bất thiện (akusala kamma).

Bí mật bệnh nhân/bác sĩ và nói thật
Đạo đức về nói thật được dạy rõ ràng trong những bản kinh Phật giáo. Trong kinh Abhayarājakumāra, một lời nói có giá trị từ ba phương diện: 1/ lời nói ấy là đúng hay sai; 2/ lợi ích (hoặc vô hại) hay là không lợi ích (hoặc có hại); và 3/ tạo nên sự dễ chịu hay khó chịu. Theo đó, bất kỳ một lời nói nào cũng có thể phân thành tám loại như sau:

1. đúng - lợi ích (vô hại) - tạo dễ chịu
2. đúng - lợi ích (vô hại) - gây khó chịu
3. đúng - không lợi ích (gây hại) - tạo dễ chịu
4. đúng - lợi ích (vô hại) - gây khó chịu
5. sai - lợi ích (vô hại) - tạo dễ chịu
6. sai - lợi ích (vô hại) - gây khó chịu
7. sai - không lợi ích (có hại) - tạo dễ chịu
8. sai - không lợi ích - gây khó chịu.

Điều đáng chú ý nhất về tám loại này là Đức Phật không chỉ xem xét việc đưa ra một lời nói đúng là một hành động đúng thuộc về miệng, hay một lời nói sai là một hành vi không đúng. Đức Phật cẩn trọng xem xét nó để xem lời nói ấy là có ích hay không, và lời nói ấy có dễ chịu hay không. Điều quan trọng hơn, Đức Phật không gán cho một lời nói “gây khó chịu” như là một lời nói không đúng. Thêm nữa, điều này hàm ý rằng ngay cho dù lời nói là đúng, nếu nó không lợi ích, thì không được khuyến khích.

Trong bản kinh này, Đức Phật nói rằng Như Lai chỉ thực hiện hai loại phát biểu: 1) đúng, lợi ích và tạo dễ chịu, hoặc 2) đúng, lợi ích và không tạo dễ chịu. Đức Phật nói rằng Ngài thực hiện những phát biểu đúng, lợi ích và tạo dễ chịu mọi lúc, tuy nhiên, Ngài thực hiện những phát biểu đúng, lợi ích và không tạo dễ chịu chỉ tại lúc hợp thời. Chúng ta có thể áp dụng những nguyên tắc mà Đức Phật đã dạy này vào trong lĩnh vực y sinh. Một vài trường hợp nói thật hay sự bí mật của bệnh nhân/bác sĩ đưa ra những vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt khi tình huống liên hệ trực tiếp đến sự sống chết của một người…

Phẩm chất của đời sống
Sự phát triển công nghệ y sinh và những khoa học khác có thể được xem là một sự tiến bộ của loài người. Nhưng câu hỏi mà người Phật tử có thể đặt ra là: “Có bao nhiêu an toàn và hạnh phúc mà nó thật sự mang lại cho con người?” Sự mãn nguyện, cảm giác an toàn, hay hạnh phúc chỉ là một vấn đề của tâm. Do đó, Phật giáo nhấn mạnh sự phát triển của tâm hơn là sự phát triển của những khoa học khác mà chúng chỉ mang đến một sự thỏa mãn tạm thời và giới hạn. Nói cách khác, nhấn mạnh chính của Phật giáo là dành cho sự tiến bộ của tâm hay sức khỏe tâm thức. Do đó, theo cái nhìn Phật giáo, phẩm chất của đời sống hay giá trị của một con người có thể được định giá chỉ ở trong sự nối kết với mức độ phát triển tâm thức hay sức khỏe tinh thần của người đó.

Phật giáo dạy rằng mọi người đều có thể có tâm thức khỏe mạnh. Không có sự khác nhau về phẩm chất giữa một đứa trẻ một tuổi và một cậu bé 15 tuổi, về việc có một tâm thức khỏe mạnh. Sự khác phau về phẩm chất xảy ra chỉ khi phẩm chất của tâm được xem xét… Theo Phật giáo, để sinh làm người là cơ hội hy hữu và quý giá nhất. Trong tất cả chúng sanh, duy chỉ con người có khả năng giác ngộ và giải thoát khỏi tất cả mọi khổ đau.

Kết luận
Trong bài viết này, bởi vì giới hạn của số trang, tôi đã không thảo luận về những vấn đề như trợ tử, chăm sóc trẻ em hay chết và chết lâm sàng. Tuy nhiên tôi tin rằng những thảo luận ở trên mà chúng được dựa trên những bản kinh Phật đưa ra chứng cứ rằng Phật giáo có thể đóng góp cho sự thảo luận về đạo đức y sinh. Phương cách của Phật giáo là giải quyết vấn đề theo một cách thức mà nó ít gây thiệt hại cho các bên liên quan. Là một thành viên có trách nhiệm của xã hội, tôi chân thành hy vọng rằng nỗ lực giới thiệu đạo đức y sinh Phật giáo này có thể là hữu ích khi thế giới hiện đại có những quyết định liên quan đến những vấn đề y sinh ở trong tương lai. Tôi cũng hy vọng rằng cộng đồng học giả Phật giáo sẽ nói đến những vấn đề này tích cực hơn nữa và đưa ra những giải pháp tốt hơn cho những vấn đề phức tạp của đạo đức y sinh hiện đại.

Nguồn: Shoyo Taniguchi, A Study of Biomedical ethics from a Buddhist perspective, Berkely: Graduate Theological Union and the Indstitute of Buddhist Studies, 1987.

Shoyo Taniguchi - Đăng Nguyên, dịch
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4546)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7373)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4779)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4889)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5338)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10308)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9130)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6223)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8822)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5004)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]