Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương I. Có và Không theo quan niệm về tình yêu và ái nhiễm

13/05/201316:11(Xem: 6203)
Chương I. Có và Không theo quan niệm về tình yêu và ái nhiễm

Có và Không

Thích Như Điển

Phật lịch 2544 - 2000

Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội Phật Giáo Việt Nam

tại Cộng Hòa Liên Bang Đức Xuất Bản

---o0o---

Chương I 

Có và Không theo quan niệm về tình yêu và ái nhiễm

Nói về tình yêu thì xưa nay đã có rất nhiều sách vở đã đề cập đến rồi; nhưng ở đây tôi chỉ muốn phân tích rõ ràng bản chất của sự việc qua cái nhìn của Phật Giáo để từ đó chúng ta hiểu rõ hơn về sự hiện hữu của tình yêu.

Tình yêu nó vô hình; nhưng nó đã làm xao xuyến không biết bao nhiêu con tim non dại, lẫn những kẻ trưởng thành và những người sắp chầu thiên cổ. Ngày xưa khi còn học Trung Học, tôi có học một bài thơ tình của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu rất hay, nhan đề là "Chữ Tình" như sau: 

"Cái tình là cái chi chi

Dẫu chi chi cũng chi chi với tình

Đa tình là dở

Đã mắc vào đố gỡ cho ra

Khéo quấy người một giấc thiên ma

Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy

Đã gọi người nằm thiên cổ dậy

Lại đưa hồn mộng ngủ canh đi

Cực kỳ thay những lúc phân kỳ

. . . . ."

Kinh nghiệm như Tản Đà mà còn không định nghĩa được chữ tình, mà ông cho là cái chi chi. Nhưng dẫu sao đi nữa cũng phải đáp ứng với cái tình đó. Cũng tình yêu đó đã làm cho người chết ngàn năm vẫn còn có thể ngồi dậy để nghe tiếp những chuyện tình còn dang dở ở những kiếp xa xưa nào đó và cái tình nầy cũng đã làm cho con người túy sanh mộng tử, mờ mờ mịt mịt, không biết lối nào mà ra được. Vì vậy chuyện luân hồi sanh tử, con đường trần ai khập khuỷu cũng đã có lắm kẻ bước vào rồi trở ra. Trở ra rồi lại vào. Đúng là cái chi chi rồi. Nhưng tại sao thế ? Nơi đây tôi sẽ phân tích nhiều thứ tình yêu và ái nhiễm khác nhau để chúng ta có thể nhìn rõ bộ mặt thật của nó.

1. Tình yêu nam nữ

Tôi sẽ không đi sâu về vấn đề nầy; nhưng qua những hiện tượng yêu rồi bỏ, thương rồi ghét của nhiều người, chúng ta thử phân tích đó là gì ? Khi còn nhỏ người ta chưa phát hiện ra thứ tình nầy; nhưng khi lớn lên, tình yêu nầy tự nhiên nảy nở. Người con trai thương người con gái và ngược lại người con gái cũng không thể thiếu người con trai. Những năm tháng đầu của việc thương yêu nhau, cả hai người đều nhìn cái gì cũng đẹp hết. Vì tất cả đều hướng về những đam mê của mỗi bên, do vậy mà cái gì cũng tốt cũng hay hết. Dẫu có lỗi, có quấy xảy ra trong thời gian thương yêu nhau nầy đi nữa người ta cũng dễ tha thứ cho nhau và quên đi rất lẹ. Vì người đàn ông, con trai bao giờ cũng muốn chiếm hữu đối tượng của người mình thương, mình yêu đó. Ngược lại người con gái, đàn bà luôn luôn muốn nương tựa, cậy nhờ. Do vậy mà hai bên lại hợp ý và hợp tình với nhau. Từ thương yêu sinh ra ái nhiễm và từ ái nhiễm sẽ đi đến chỗ mê mờ không xa mấy. Khi ái dục đã phát khởi thì con tim si mê đã làm chủ mình rồi. Lý trí sẽ đi chơi chỗ khác. Do vậy mà khi ta thương thì tâm ta không có thù hận ở trong đó; nhưng khi tâm ta ghét ai thì hoàn toàn không có một hình ảnh tốt đẹp của lúc ban đầu. Do vậy ca dao Việt Nam mới có câu:

"Thương nhau thương cả đường đi

Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng"

Đây là cái tâm chấp trước về tình yêu. Khi thương nhau thì cái gì cũng được; nhưng khi ghét nhau rồi, thì những hình ảnh cũ đã nằm sâu trong A Lợi Da Thức (Thức chứa đựng) sẽ qua sự chấp trước của Thức A Mạt Na (Thức chấp ngã) mà tạo nên thương ghét, hay thiên đường, địa ngục cũng từ đó mà phát sanh. Dĩ nhiên nó không có cái bắt đầu nhứt định và cũng không có cái chấm dứt sau cùng. Tất cả đều hòa lẫn vào nhau để tồn tại, vì nhân duyên hội tụ kết lại mà thành.

Tôi quan sát cuộc đời, mặc dầu trong hiện tại không nhập cuộc với cuộc đời nầy và tôi đã thấy như sau. Có nhiều cặp trai gái rất xứng đôi vừa lứa, yêu nhau say đắm. Những ngày đầu tặng cho nhau những bông hồng thật tươi, thật đẹp. Họ đã có những nụ cười mãn nguyện, đã có những giờ giấc ngồi bên nhau thâu đêm suốt sáng, đã có nhiều lời hứa hẹn lấy đá vá trời và cũng không quên gọi nhau bằng những tiếng anh anh em em ngọt lịm, tưởng như không bao giờ gián đoạn. Tất cả những gì tốt đẹp đều đem ra phơi bày trang trải nơi tấm lòng của mỗi người. Nhiều người nhìn thấy thế cho là hạnh phúc. Nhưng chẳng bao lâu sau, nhất là khi đã sinh con đẻ cái, làm ăn khó khăn, gặp hoạn nạn chất chồng v.v... thì những bông hồng tươi ngày xưa tặng nhau không còn nữa, mà thay vào đó là những nguýt, háy, nói những lời nặng nề với nhau cho hả cơn giận. Vì đối phương không thể hiện những gì mà mình muốn. Những lời ngọt ngào anh anh em em ngày nào, bây giờ chỉ còn là ông nầy, bà kia, mầy tao, mi tớ v.v... Tại sao cũng mới ngày nào đó, cũng chỉ có hai người thôi, nói chỉ toàn là những lời trăng hoa, ong bướm; rồi bây giờ lại ra thể thống như vậy ? Tại sao và vì ai nên nỗi ấy? Lúc bấy giờ thì ai cũng phải hết và lỗi thì đổ cho đối phương. Tại ông đó, tại bà đó, tại vì... v.v... hết lý do nầy đến lý do khác để phân trần; nhưng kết cuộc rồi cũng chẳng ra thể thống nào hết.

Cũng như thế ấy, khi ta mới mua một chiếc xe về, trong những tuần lễ đầu ta hứng thú, vui vẻ, yêu đời và luôn luôn lau chùi sạch sẽ; nhưng việc nầy không lâu, ta lại quên đi để đi tìm một niềm vui khác, hoặc giả ta tự cho phép ta quên để đi tìm một đối tượng khác. Do vậy mà cái thương, cái yêu, cái khổ, cái ghét v.v... nó không có cái cuối cùng, luôn luôn thay đổi, luôn luôn tìm đối tượng để gởi trao, chào mời. Hợp thì vui, không thì khổ. Như vậy thực tướng của tình yêu ta thấy có đó, mà trái lại nó cũng là không và từ chỗ không nầy nó biến thành có và có lại trở thành không. Cứ mãi mãi như thế luẩn quẩn trong vòng luân hồi sanh tử là vậy. Vì thế nên Ngài Nagarjuna (Long Thọ) Tổ Sư của học thuyết tánh không đã mô tả về tình yêu và ái nhiễm như những cơn ngứa ngáy vậy. Càng gãi thì càng ngứa. Không có cái đã ngứa để ta tự dừng lại. Ngoại trừ chính ta tự làm chủ mình. Trên thực tế thì khó ai mà dừng lại ở những lúc ái nhiễm được đáp ứng; nhưng sau đó và trước đó, là những khoảng trống không vô tận, không còn một mảy may gì nữa cả.

Trong Đại Trí Độ Luận, quyển thứ 42, Ngài Long Thọ cũng đã có nhiều ví dụ rất hay về chúng sanh và chư Phật. Ngài ví chúng sanh cũng giống như những con ruồi và ví những bậc giác ngộ như những đóa hoa sen. Con ruồi thì ưa đậu nơi phân dơ. Tuy hoa sen có đó; nhưng nó đâu có màn tới. Vì sao vậy? Vì trí tuệ của con ruồi thấp kém, chỉ chấp nhận bãi phân là đối tượng của mình. Chúng sanh trong cõi luân hồi cũng đều như vậy thôi. Chỉ ham mê nơi ái dục, tình yêu và ái nhiễm nơi thể xác; nên mới chọn Ta Bà chứ không thích Tịnh Độ hoặc các cảnh giới giải thoát khác. Mặc dầu ai thấy bông sen cũng đều cho là đẹp - giống như thế giới của chư Phật và Bồ Tát vậy; nhưng đâu phải chúng sanh nào cũng ưa thích giác ngộ. Vì lẽ tâm thức còn hạ liệt, trí tuệ chưa vun bồi, dẫu cho có bắt bỏ vào cảnh giới của hoa sen đi nữa, thì con ruồi kia vẫn chọn đống phân như thường. Điều ấy nó không khó hiểu mấy, vì lẽ chúng sanh chỉ thuận theo những gì mình ưa thích, mà chính những sự ưa thích ấy dẫn mình vào cõi đọa lạc; nhưng mấy ai hay biết bao giờ.

Đó là cõi người; chứ cõi chư Thiên và các cõi trời khác trong 33 từng trời cũng chỉ chừng ấy việc thôi. Có thế giới cao thượng hơn thì yêu nhau bằng tâm thức chứ không bằng thể xác; nhưng đồng thời cũng có những thế giới lạc hậu, dơ bẩn ở cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh v.v... chúng vẫn yêu đương nhau và tiếp tục sinh ra những chúng sanh như thế để kế thừa. Một sanh ra hai, hai sanh ra bốn và cứ thế mà tiếp tục nhân lên thôi. Không bao giờ có sự dừng nghỉ cả. Ví dụ chúng ta nhìn thấy con heo, con bò, con ngựa, con sư tử, con tằm, con rùa v.v... chúng làm tình với nhau cũng chỉ vì chúng ái nhiễm với nhau. Chọn con nầy và bỏ con khác, chỉ vì những tia quang phổ yêu đương của 2 con không hòa nhau. Nhưng sự hòa nhau nầy không lâu, chúng sẽ sinh ra ghét gỏng, bỏ bê. Sinh con ra không nuôi, giận hờn, theo con khác v.v... Con người cũng như thế. Tuy con người có văn minh đó; nhưng nếu chư Thiên ở cõi trời cao hơn chúng ta thì nhìn con người cũng như con vật vậy thôi. Ngược lại con vật nhìn chúng ta có lẽ chúng trọng vọng và nể sợ lắm giống như chúng ta nhìn chư Thiên vậy thôi. Rồi kế tiếp nữa, chư Thiên ở cõi trên và trên nữa sẽ nhìn xuống chư Thiên ở cõi dưới về vấn đề tình yêu và ái nhiễm thì vẫn thấp hèn vậy thôi. Cứ thế mà mãi lên đến tận những vị A La Hán, Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát và Phật thì quả là một đoạn đường sanh tử rất xa vời. Phải là vô lượng kiếp, vô lượng kiếp số chúng ta mới tới được. Tuy nhiên nếu tâm chúng sanh luôn luôn huân tập những chủng tử lành, thì Tịnh Độ cũng không xa mấy với cõi Ta Bà đầy não phiền ai lụy nầy.

Bồ Tát và Phật đã ra khỏi vòng luân hồi sanh tử; nên không còn yêu riêng ai. Chỉ lấy chúng sanh làm đối tượng để mình cứu độ mà thôi. Vì vậy trong kinh có câu: 

"Ái bất nhiễm bất sanh Ta Bà

Niệm bất nhất bất sanh Tịnh Độ" 

là vậy, nghĩa là: nếu người nào ái dục không còn nhiễm ô thì không sanh ở thế giới Ta Bà nầy nữa. Cũng thế ấy, người niệm Phật không chuyên tinh thì không thể nào vãng sanh về Tịnh Độ được.

Phật thì không thương riêng ai mà cũng chẳng ghét riêng ai. Vì nơi tâm Phật và chư vị Bồ Tát đều có bình đẳng tánh. Ai đáng độ thì Phật đã độ và sẽ được độ. Ai đáng giáo hóa thì Phật giáo hóa, không từ nan một sự khó nhọc nào, nếu chúng sanh cần đến Ngài; nhưng vì lẽ chúng sanh còn cách Phật quá xa nên mới sinh ra những sự cố chấp vào hình tướng như thế.

Như vậy loại tình yêu nam nữ nầy không có gì là chắc thật cả. Nó chỉ là mộng ảo; nhưng vì con người mê nên mới khởi tâm lên như thế; đến khi ngộ rồi thì mọi thứ đối đãi về ái nhiễm nầy là những thứ đáng ghê sợ. Vì đã sa ngã vào con đường nầy rồi, rất khó có cơ hội để được thoát ra. Mà đã được thoát ra rồi; nhưng thân tâm không chánh niệm thì cũng dễ sa vào con đường tội lỗi nữa, để lúc nào cũng phải bị luân hồi sanh tử. Vì chính tâm thức của mình đã chọn nghiệp cho mình, chứ chẳng ai có thể làm cho mình tốt hơn hoặc xấu hơn cả. Do vậy mà có thể nói rằng những hành vi của chúng ta sẽ tạo nên nghiệp lực và chính nghiệp nầy đã dẫn dắt chúng sanh luôn luôn triền miên trong cảnh khổ. Chỉ có những người vượt qua được lưới ái, thì mới mong gần gũi được cảnh giới giác ngộ giải thoát mà thôi.

2. Tình yêu đồng loại

Trong mỗi người của chúng ta có nhiều thứ tình cảm khác nhau đan lẫn vào nhau trong tâm thức để tồn tại. Có người nặng về tình yêu nầy mà nhẹ tình yêu kia. Có người hầu như hoàn toàn không có, lãnh đạm trước mọi hoàn cảnh đổi thay của nhân thế. Con người mang toàn một khối lượng vật chất, nào thịt nào da, nào xương nào tủy, nào tim nào phổi và vô số tế bào để tồn tại cùng với cái tánh biết đó. Ngày nay khoa học luận cứ rằng mọi hành động của con người đều do não bộ điều khiển. Ngày xưa Trung Quốc bảo rằng do quả tim điều khiển. Còn đạo Phật thì sao? Nói về Phật học thì bao la vi diệu, khó diễn tả hết được; nhưng chúng ta có thể hiểu rằng: Cái nầy tồn tại nhờ cái kia. Nếu cái nầy thay đổi thì cái kia phải biến thể. Cái nầy tồn tại là vì đầy đủ nhân duyên. Cái nào mạnh hơn, sẽ lấn áp cái yếu thế hơn. Ví dụ trong mỗi con người, kể cả nam lẫn nữ đều có tánh mạnh và tánh yếu. Tánh mạnh ví dụ như sự can cường, không khuất phục vũ lực, luôn luôn ở thế tấn công v.v... Tánh yếu ví dụ như nước mắt, sự phục tùng quyền lực, luôn luôn dừng bước khi có vật cản trở v.v... bất luận là nam hay nữ. Nếu ai trong chúng ta có tánh nào mạnh hơn, chúng sẽ biểu lộ lên hành động của chúng ta rõ ràng hơn. Ví dụ có những người đang mang thân hình là nam tử; nhưng tình cảm và hành động luôn luôn biểu lộ của phái nữ. Vì sao vậy? Vì tánh cách của nữ rõ ràng hơn nơi người nam ấy. Ngược lại cũng có lắm người mang thân nữ nhơn; nhưng hành động của họ hoàn toàn nam tính. Vì lẽ những hành động mạnh thể hiện ở họ rõ ràng hơn. Do vậy ta có thể hiểu rằng trong người nam có sự hiện hữu của người nữ và trong người nữ có sự hiện hữu của người nam. Nếu đem vấn đề luân hồi sanh tử của Đạo Phật để giải thích thì không có gì khó khăn cả. Sở dĩ có nhiều người mang thân hình nam nhi; nhưng luôn luôn được cấu tạo tư tưởng của phái yếu. Điều đó chứng tỏ rằng người ấy mới từ phái nữ đầu thai lên làm người nam, hoặc giả người nam ấy chuẩn bị trở thành người nữ trong kiếp sắp đến. Ngược lại cũng có lắm người nữ mà hình tướng và tư tưởng của họ biểu trưng cho người nam một cách rõ rệt. Vì họ kiếp trước mới là người nam và kiếp nầy biến thành người nữ, cho nên hình dáng của họ vẫn còn phảng phất của một đấng nam nhi. Cũng có thể hiểu họ là những người kiếp trước luôn luôn muốn mình trở thành người nam; nên thân nầy họ nhận thân người nữ để sẽ được toại nguyện như những gì đã mong cầu ở thuở xa xưa cũng nên và họ chắc chắn sẽ làm thân nam ở kiếp sau. Điều ấy cũng dễ hiểu thôi. Vì lẽ, cái gì mình mong muốn, đợi chờ, cái ấy sớm muộn gì cũng sẽ đến dầu xấu hay tốt do kết quả về nghiệp lực và hành vi tư tưởng của mình còn sót lại. Ví dụ một người luôn luôn để ý đến sự yêu đương thì trước sau họ cũng được hoặc bị yêu. Vì lẽ tư tưởng họ luôn luôn dán chặt vào đó; nhưng kết quả của sự yêu đương ra sao thì do nhân duyên và hành động của họ định đoạt vậy. Một người luôn luôn hướng đến chuyện học hành nghiên cứu thì kết quả là công danh sự nghiệp, nhiều người quên luôn chuyện tình yêu nam nữ nữa. Ở trên đời nầy không nhất thiết mọi người đều phải bước qua lỗ kim của sanh tử luân hồi; nếu người ấy muốn chối từ khổ đau và chọn con đường giải thoát cho chính mình.

Một người khác luôn hướng tư tưởng và hành động của mình về nẻo thiện, về giáo lý giác ngộ, về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà thì trước sau gì người ấy cũng thành tựu dầu chậm hay mau. Ví dụ chúng ta có mục đích phải đi La Mã chẳng hạn. Khi mục đích đã được đặt ra rồi thì chúng ta chọn phương tiện để đi, cũng giống như chọn pháp môn để tu vậy. Người đi máy bay, người đi tàu lửa, người đi xe máy, kẻ đi xe đạp, người đi tàu thủy và cũng có kẻ đi bộ nữa. Nhưng cuối cùng rồi cũng sẽ đến La Mã và trên đoạn đường đó ta dừng nghỉ không biết bao nhiêu lần cũng giống như con đường luân hồi sanh tử của ta thôi, ta đã tạo nghiệp gì khi đi trên con đường ấy, chắc chắn ta phải trả và ta sẽ hưởng vậy.

Mỗi người trong chúng ta có một quê hương để mà nhớ nghĩ đến, cũng có nhiều bà con thân thuộc để mà tưởng nhớ về. Mọi người sẽ tự nhắc nhở cho mình, mình là người gì, sinh ra từ đâu v.v...

3. Tình yêu Quê Hương và Tổ Quốc

Mỗi người đều có một nơi sinh ra; nhưng việc trưởng thành và chết đi, không nhất thiết ở tại quê hương của mình. Do vậy có nhiều người đã xa quê cha đất tổ để đi lập nghiệp bốn phương trời và thế hệ thứ nhất, thứ nhì họ vẫn còn luôn luôn hướng về nơi chôn nhau cắt rún của họ. Nhưng bắt đầu từ thế hệ thứ 3, thứ 4 trở đi thì cái tình cảm quê cha đất tổ không còn mặn nồng như những thế hệ trước nữa. Nếu cứ mỗi 20 năm là một thế hệ thì không gian và thời gian cứ như thế mà cách ly dần. Đa phần con người đều hướng về tương lai và chỉ một phần rất nhỏ lo hoài vọng về quá khứ. Vì tương lai bao giờ cũng mở rộng và mới mẻ, có nhiều hy vọng. Còn quá khứ là những gì đã trôi qua, cũ kỹ, xa xôi... nên không nhất thiết phải hướng về. Chỉ trừ những người có tâm hồn hoài cổ mà thôi.

Quê hương là gì, người ta không thể định nghĩa được, cũng giống như tình yêu; nhưng thiếu tình nghĩa của quê hương thì người ta cảm thấy thiếu thốn khó chịu. Con người luôn luôn chuyên vào những cái gì bị trói buộc; nên khổ tâm cũng không ít, khi bị thiếu thốn; nhưng ngược lại cứ đối diện với cái khổ đau của quê hương hoài, thì người ta cũng sinh ra sầu muộn.

Ở vào những năm đầu thế kỷ 20, Đức Huỳnh Phú Sổ, Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo đã đi làm Phật sự, chữa bịnh, cho thuốc, giảng giáo lý v.v... với một tâm niệm thiết tha là cứu người và cứu đời ra khỏi chốn trầm luân khổ ải và cũng đã có nhiều người thương Ngài, ngay cả đến việc yêu riêng Ngài: nhưng Ngài đã đối lại với những tình yêu ấy bằng bài thơ như sau: 

Tôi có tình yêu rất mặn nồng

Yêu đời yêu đạo lẫn non sông

Tình yêu chan chứa trong hoàn vũ

Chẳng phải yêu riêng khách má hồng

Nếu khách má hồng muốn được yêu

Thì trong tâm trí phải xoay chiều

Quay về phụng sự cho nhân loại

Sẽ gặp tình chung trong khối yêu.

Tình yêu nó cao thượng như thế, không nhất thiết chỉ là tình yêu nam nữ với nhau. Người ta cũng có thể yêu văn chương, âm nhạc, hội họa, triết học v.v... và nhiều khi người ta còn có thể biến những thứ tình yêu vị kỷ đó trở thành những loại tình yêu cao thượng như bài thơ bên trên biểu trưng cho tình thương cứu đời mến đạo của Đức Huỳnh Giáo Chủ vậy.

---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 13488)
Phật giáo là một tôn giáo khiêm tốn,chú trọng vào tâm linh và trí tuệ, nhắm vào mục đích giải thoát con người khỏithế giới biến động và khổ đau. Phật giáo không chủ trương tranh giành uy quyền,củng cố thế lực hay bành trướng ảnh hưởng trong thế giới Vô thường này.
18/09/2010(Xem: 6787)
Nhiều người hỏi tôi, Phật tử nghĩ gì về hôn nhân đồng tính? Vâng, vấn đề này tùy thuộc vào đối tượng mà bạn nói đến. Cách đây vài năm, trong cuộc phỏng vấn với hãng CBC, đức Dalai Lama đã bác bỏ quan hệ đồng tính, khiến ngạc nhiều người cải đạo sang đạo Phật ngạc nhiên. Đôi khi, họ quá dễ dãi cho rằng đạo đức Phật giáo là phù hợp với quan điểm tiến bộ tiêu biểu của họ. Khi cuộc phỏng vấn của người Gia-nã-đại được lên mạng internet, vài người bị choáng và bị rối, nhưng quan điểm của đức Dalai Lama đưa ra không làm ngạc nhiên đối với bất cứ ai lưu tâm theo dõi vấn đề này. Rốt cuộc thì lập trường của ngài vẫn trước sau như một. Tại một hội nghị cách đây 12 năm, khi các lãnh đạo đồng tính gặp đức Dalai Lama ở San Francisco để thảo luận vấn đề cấm Phật tử Tây Tạng phản đối việc đồng tính luyến ái, ngài đã nhắc đi nhắc lại quan điểm truyền thống rằng đồng tính luyến ái là “tà hạnh”
18/09/2010(Xem: 11921)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
17/09/2010(Xem: 8676)
Gốc tiếng Phạn của chữ cà-salà kasaya.Nhưng thật sự chữ kasayatrong tiếngPhạn không có nghĩa là áomà có nghĩa là bạc màu, cáu cặnhay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm(màu nhạt), trọchay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sacủa người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèonàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gìvề chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc nhữngđiều vừa nêu trên đây.
10/09/2010(Xem: 51175)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 5440)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựng là vô cùng mạnh mẽ, tại vì chỉ một giây phút tức giận là có thể phá hủy hết công đức của cả một đời người.
07/09/2010(Xem: 6653)
Chúng ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt trời, như cá khát dòng sông êm dịu. Thế nhưng, khi chúng ta đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
04/09/2010(Xem: 9930)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 5900)
Đọc xong những câu chuyện của các phụ nữ ở Hoa Kỳ và kinh nghiệm của các vị đối với đạo Phật, chúng tôi đã rất hoan hỷ và xúc động trước những nhận thức sâu xa của họ về cuộc sống, con người và môi trường chung quanh... Những lời dạy của đức Phật vừa nhiệm màu vừa thực tiễn đến làm sao! Những lời giảng dạy ấy đã chữa lành, loại bỏ những khổ đau và đem lại sự bình an, hạnh phúc đến hàng vạn con người trong nhiều thế kỷ qua. Sau đây là các câu chuyện của những phụ nữ người Hoa Kỳ từ các nguồn gốc khắp nơi trên thế giới. Những câu chuyện về hạnh phúc và sự sống trong tỉnh thức của họ qua sự tu tập và trở về với Đạo Phật. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu và chia xẻ cùng bạn đọc.
02/09/2010(Xem: 5999)
Phiêu linh bao kiếp luân hồi - Phút giây hội ngộ, đời đời khổ đau - Mịt mùng tăm tối lạc nhau- Mang mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567