Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xuân cửa Thiền

13/05/201312:56(Xem: 10222)
Xuân cửa Thiền
Cho Trọn Mùa Xuân


Xuân Cửa Thiền

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-5Hôm nay ngày đầu xuân năm mới, ngày xuân tết, tôi chân thành gởi đến quý vị lời cung chúc tân xuân vạn hạnh.

Thưa quý vị, xuân trần gian là xuân theo thời tiết tháng năm, xuân nằm trong quỹ đạo luân hồi sanh diệt tương sanh tương tồn tương biến của hiện tượng âm dương đất trời. Vì bản chất tương sanh tương diệt thoạt hiện thoạt không của xuân trần gian, nên khi xuân đến xuân đi vạn vật cũng theo đó mà hiện tướng:

Xuân về hoa lá xanh tươi
Xuân đi hoa lá rã rời héo hon!

Bản chất của xuân trần gian thì mong manh theo thời gian hiện thành lẽ sanh diệt trong từng nhịp tim bóp thắt theo đó mà sanh ra hiện tượng thăng trầm tươi héo héo tươi, nên bàng bạc ẩn hiện trạng thái suy tàn ngay khi xuân đến và hiển lộ cảnh tượng tiêu điều khi xuân đi. Xuân đến lòng người rộn rã tươi cười, xuân đi ai đó hững hờ kém vui:

Hoa xuân không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in vết đau.

Bản chất của xuân trần gian là vô thường giả tạm, một thứ xuân ngoại cảnh hạn định theo thời gian mùa tiết, chứ nào phải xuân phát xuất từ nội tại xuân lòng. Do vậy một khi xuân lòng chưa nẩy nở, xuân tâm thức chưa khai mở thì, dòng sinh thức của chúng sanh vẫnphải còn ảnh hưởng buồn vui với hiện trạng của xuân trần gian ngoại tại. Nỗi u uẩn thầm kín nơi mọi cõi lòng người xúc động khi xuân đến xuân đi. Còn thấy xuân đến xuân đi thì còn lưu lại cảnh tượng tươi héo vui buồn, hân hoan tương phùng hay sầu bi ly biệt, còn hiện tượng hả hê chúc tụng hay chua xót rơi lệ đau thương trên khắp vạn ngả đường trần thế: Mẹ mong đợi con về để đoàn tụ ba ngày xuân tết, nhưng bóng hình con biền biệt. Vợ mỏi mòn ngóng trông chồng về đoàn tụ ngày xuân, nhưng xuân đã đến rồi xuân lại đi mà chồng vẫn biệt vô âm tín. Có kẻ than thầm trách phận: Xuân đến mà sự nghiệp dở dang tan tành, đã mấy mùa xuân rồi mà công chưa thành, danh chưa toại!

Xuân đến cũng là dịp để cho người trần thế tỉnh cơn mê trong trường canh mộng, có giây phút sống lại với chính mình sau những tháng năm lặn lội mệt mỏi trên đường đời và cất lên lời thương than cho vận nước: Mười mấy mùa xuân rồi mà đất nước vẫn băng hoại rách nát, dân tình vẫn thống khổ đói nghèo lầm than, người dân Việt hiền lành vẫn tiếp tục trong tình trạng hiểm nguy bỏ nước ra đi, người dân Việt vẫn còn cảnh trôi sông chìm biển chết rừng chết bụi. Đau đớn hơn nữa, cảnh tượng người ăn thịt người trên bể cả, ngục tù vẫn chưa hết áp bức hành hạ người thương nước yêu tự do. Đã bao mùa xuân đến rồi xuân đi, mà hằng vạn triệu người xa làng nước vẫn cam phận ngồi nơi đất khách, mang kiếp tha hương, với cõi lòng buồn thương tê tái trong mùa xuân ly hương vô vị, phải chứng kiến trạng huống phân ly chia rẽ của đồng bào ruột thịt cấu xé hãm hại lẫn nhau!

Xuân đến để làm gì hỡi xuân? Phải chăng để cho người trần thế chất chồng tuổi đời thêm cao, mà vẫn bụng trống lòng không, thực tế đối vời đời thì vô dụng, đối với đạo là chướng duyên, bởi đã đánh mất cái thiện tâm, cái thiên lương đã ô uế hoặc tự hủy cái tâm đạo đức, để ngày ngày đắm sâu vào danh lợi dục tình, tăng trưởng phàm tánh, gây họa hại cho đạo và đời! Nếu chỉ biết vui theo xuân trần gian để rồi đắm chìm trong ngũ dục lạc mà không biết phản tỉnh nội tâm để khai triển xuân lòng, xuân chơn thiện mỹ thì mỗi lần xuân đến chỉ chất chồng thêm tuổi tác già nua và đắm chìm sâu trong sông tình biển ái, quay cuồng lầm lạc trong bãi sa mạc tha ma nhục dục lỗi lầm, rốt cuộc tinh thần đói khát, trí huệ mịt mù không biết bao giờ mới ra khỏi trần lao. Nếu cứ sống mãi trong tình thức, tham tâm chấp kiến ngã si tà mạn, mơ tưởng viễn vông, si mê tham vọng, cảm tình mù quáng thì vô tình tự dối lương tâm, chỉ tạo thêm cùm kẹp xích xiềng để rồi tự hủy diệt bản chất thánh thiện xuân lòng mà xưa nay vốn sẵn có.

Xuân lòng chỉ nẩy nở, khi cõi lòng trong sạch, não phiền đã nhẹ vơi tâm thanh thản rộng mở. Cõi lòng thanh thản là khi thực sống với lương tâm mình trong trạng thái tâm hồn thanh tịnh, chính mình ý thức đối diện với lương tâm, tư duy quán chiếu, hồi quang giác tỉnh, thấy mình không hổ thẹn với chính lương tâm mình, lại thấy lòng phẳng lặng hồn nhiên không gợn sóng tà niệm lăng xăng, ấy là thời điểm của xuân lòng hiển lộ, hoa xuân lòng chớm nở.

Khi mà xuân lòng chưa hiển lộ thì dù cho mấy độ xuân trần gian đến đi, thì cũng vẫn chỉ như những đám mây hồng nhẹ trôi trong buổi hoàng hôn rồi tan biến, chẳng làm cho người cảm nhận được thanh khí mát lành mùa xuân. Thấu triệt lý sanh diệt xuân trần gian bọt bèo mong manh như bản tính của mây ngàn lãng đãng buổi hoàng hôn, như những hạt sương lóng lánh trên ngàn cây ngọn cỏ hoa lá buổi sáng tinh sương, cảnh tượng đó có bao giờ trường cửu? Bản chất của xuân trần gian vốn không trường cửu, nên đã lưu lại cho lòng người biết bao nỗi niềm chua xót! Bởi thế, một khi xuân lòng rộng mở thì xuân trần gian cũng theo đó trở nên tươi đẹp khắp cả mọi thời mọi nơi. Thi nhân đã nói:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Chỉ khi nào lòng người thanh tịnh thản nhiên tự tại trước mọi sự đổi dời của đất trời cảnh vật, thì lúc đó cõi lòng rộn nở hoa xuân, tâm xuân nhìn thấy đâu đâu cũnglà xuân, khắp vũ trụ hoa xuân tươi nở ngạt ngào. Thế nên, muốn hưởng mùa xuân chơn thường hạnh phúc thì trước nhất phải xây dựng tâm xuân. “Tâm xuân vũ trụ đều xuân.” Tâm xuân thì vạn vật xuân. Kinh Hoa-Nghiêm nói:

Tâm như công họa sư
Tạo chủng chủng chư pháp.

Tạm dịch:
Tâm như họa sĩ tài ba
Tùy theo cảnh vật tạo ra muôn ngàn.

Tâm không an thì cảnh vật u buồn ảm đạm thê lương. Dù cho xác pháo đầy đường, muôn hoa phô sắc để tô điểm cho xuân trần gian thêm phần hương sắc, mà tâm bất an thì xuân lòng vẫn chưa khai thác, tiếng hát xuân trần gian cùng với muôn ngàn hương hoa sắc thắm trên đời chỉ gợi thêm sự buồn tủi chua xót đau thương. Khi tâm người thanh tịnh, lòng người an định thì cảnh giới tâm linh rộng mở, lúc đó hoa xuân lòng mới rộn nở hòa điệu cùng hoa xuân đất trời. Bấy giờ tâm xuân rung động hòa điệu cảm thông với xuân vũ trụ. Khi tâm xuân hòa điệu cùng xuân vũ trụ tạo thành nguồn an vui bất tận, thì lúc đó nhạc xuân lòng hòa cùng nhạc xuân vũ trụ tạo thành bản nhạc muôn điệu vi điệu huy hoàng thanh thoát trong ánh xuân dương.

Tâm tịnh lòng an định thì không những toàn triệt chân lý vũ trụ, mà tâm thể cũng theo đó hòa điệu nhịp nhàng cùng với bản thể các pháp, thấu suốt tận cùng sự chuyển biến của dòng sanh mệnh tâm thức của chính bản thân và của vạn vật cùng ngàn sao vũ trụ bao la. Xuân lòng thể nhập cùng xuân vũ trụ ấy là hiển lộ tâm xuân, xuân cửa thiền.

Xuân cửa thiền là mùa xuân chứa chan nguồn sống của vạn loại sanh linh. Thế nên, xuân cửa thiền phát triển là xuân muôn thời muôn thuở, xuân miên viễn siêu vượt mùa tiết tháng năm. Xuân cửa thiền là tâm xuân, mùa xuân của nguồn sống tâm linh, mùa xuân được kết tinh bằng năng lực định huệ. Nhị tổ Huệ-Khả đã không quản ngại mưa gió tuyết băng, trải suốt mấy năm trường quỳ hầu cạnh sơ tổ đạt-Ma cũng chỉ cầu được “an tâm” để trọn hưởng mùa xuân lòng. Tâm an thì lý đắc. Thân tâm thanh tịnh thì cảnh giới thênh thang, muôn ngàn hương sắc. Thân tâm thanh tịnh thì gia đình hạnh phúc, thế giới hòa bình, ấy là khi chúng sanh đã đạt xuân cửa thiền, xuân thường tại. Tâm xuân thì cảnh vật xuân, cõi lòng rộng mở. Tâm an thì phát sanh trí huệ, thể hiện tinh thần đại đồng, nơi nơi hoa xuân rộn nở ngát hương giải thoát. Ấy chính là bản thể đặc thù của tâm xuân, mùa xuân vượt ngoài năm tháng. Vì muốn được cảnh giới của tâm xuân mà Huệ-Khả đã phải ròng rã thân để ầu được “an tâm”:

Tâm xuân vũ trụ đều xuân
Tâm buồn thế giới đâu đâu cũng buồn.

Muốn đạt được tâm xuân trước tiên phải đoạn dứt duyên trần, tâm an định trong sạch vọng niệm, bặt hết ý phân biệt. Còn phân biệt là còn hiện tượng sanh diệt, còn trạng thái thịnh suy, còn mầm mống thị phi vui khổ. Nên sơ tổ Đạt-Ma đã khuyên đồ chúng dứt duyên trần để thật sự đạt tâm xuân ngõ hầu thấy bản tánh đạt đạo. Ta hãy nghe Đạt-Ma thiền tổ dạy:

Ngoại tức chư duyên
Nội tâm vô đoan
Tâm như tường bích
Khả dĩ nhập đạo.

Tạm dịch:
Ngoài dứt các duyên
Trong không nghĩ lường
Tâm như tường vách
Mới thể nhập đạo

Tâm đối với ngoại cảnh không dính mắc thì lòng mới thanh thản tự tại. Đối với các hiện tượng thăng trầm vinh nhục của thế sự không bận lòng, trong trạng thái dửng dưng hồn nhiên an định bất động như tường vách là đạt đạo, là tâm xuân. Tâm xuân là tâm không phân biệt, không biên giới không gian, tức là chơn tâm thường tại, tâm vật không hai. Ấy là chơn tâm, tâm xuân muôn thuở, lòng xuân rộng mở bao la, khi đó cảnh giới của tâm hài hòa dung thông nhìn thấy khắp bầu trời nơi nơi hoa cười chim hót, người vật không còn ngăn cách, vạn vật hanh thông không chướng ngại.

Trong cảnh giới chơn tâm không tịch hòa đồng tâm vũ trụ “tâm xuân vũ trụ đều xuân,” Hòa-Thượng Hương-Hải nhắc nhở người đời nên thường hằng tu tập quán chiếu tâm để tâm mình đạt đến cảnh giới “tâm không,” tức là không vướng mắc, không chấp trước, không giao động, không phân biệt, không biên giới giữa mình và cảnh, giữa tâm và vật, mà nên vô tâm để đạt lý đạo, suốt thông lẽ huyền vi, thể nhập vào xuân vũ trụ. Hương-Hải nói:

Tầm ngưu tu phỏng tích
Học đạo quý vô tâm
Tích tại ngưu hoàn tại
Vô tâm đạo dị tầm

Tạm dịch:
Tìm trâu tìm dấu chân trâu
Dấu còn trâu chẳng mất đâu bao giờ
Xin ai học đạo chớ ngờ
Vô tâm thì đạo có cơ dễ tìm

Vậy muốn đạt đạo trước phải quán sát tâm đến chỗ “vô tâm.” Muốn vô tâm thì trước phải an tâm. Vô tâm là không đắm trước duyên trần, chẳng khác nào như trăng sáng không vướng mây, mặt trời không lay động, như nước sông không dậy sóng, ấy là xuân lòng đạt thông cùng vũ trụ. Như cảnh giới tâm thanh tịnh nhập diệu lý kinh cùng lúc ấy thể nhập bản lai vạn vật, toàn cảnh vật ảnh hiện thành cảnh xuân, trời xuân bướm lượn hoa cười, tăng nhân đã bật cười với cõi lòng sáng ngời thanh thoát trong cảnh giới bản lai thường tịch của vạn pháp:

Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng

Tạm dịch:
Các pháp xưa nay vốn tự như
Không sanh không diệt cũng chẳng hư
Xuân đến trăm hoa đều rộn nở
Liễu biếc oanh vàng vui hót cười

Xuân cửa thiền là xuân bình thản an lạc không đến không đi, không trong không ngoài, không còn không mất, không sanh không diệt, không thịnh không suy. Vạn vật xưa nay vẫn tự như, hoa lá vẫn tươi cười, oanh vàng vẫn ca hót khắp mọi thời muôn thuở “đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết.” Đạt đến cảnh giới thường nhiên như thế thì lòng người mới an vui tự tại giải thoát, mới trọn hưởng mùa xuân cửa thiền, mùa xuân miên viễn, tâm cảnh dung thông chơn thường đâu đâu cũng là hương sắc trời xuân.

Khi tâm an thì đạt được xuân vạn vật vũ trụ, không còn bận lòng trước trạng thái đến đi thịnh suy, ấy là lúc xuân lòng ngát hương vượt ngoài xuân trần gian tháng năm mùa tiết. Khi tâm thật an, lòng thật thanh thản, không xao xuyến trước cảnh hợp tan nở tàn đến đi ly biệt, thì lúc ấy tâm người thể nhập vào tâm vũ trụ, và nhìn thấy đâu đâu và lúc nào cũng là hương sắc mùa xuân; hoa xuân nở khắp mọi thời, trời xuân vui đẹp khắp nơi, như tăng nhân đã nói:

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Hôm qua xuân trước một cành mai.
(Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.)

Muốn đạt được xuân cửa thiền thì trước tiên lòng phải rũ sạch trần duyên tham sân chấp ngã, mới trọn hưởng được xuân thiền thường tại miên viễn. Xuân cửa thiền là xuân đạo hạnh, là xuân lòng thanh tịnh thản nhiên như gió mát trăng trong, như lòng xuân Di-Lặc.

Thưa quý vị,

Xuân này đã là mười hai mùa xuân ly hương. Mười hai mùa xuân đất nước dân tộc lắm nỗi tang thương chưa bao giờ có trong lịch sử Việt-Nam, kể từ ngày lập quốc. Chúng ta nên tĩnh tâm suy nghiệm để còn kịp cứu mình giúp người. Có suy nghiệm, có hồi tâm tư duy quán chiếu để nhận rõ diễn biến của tâm thức và cảnh vật, như thế thì kiếp sống của ta bỏ nước ra đi mới có ý nghĩa, và đó cũng là cơ hội cho ta mở rộng lòng vị tha, thanh tịnh hóa thân tâm, để trọn hưởng hương vị xuân cửa thiền thường nhiên thanh thoát miên viễn hòa cùng với mùa xuân thiêng liêng đất trời, nhịp nhàng hòa điệu cùng hồn thiêng sông núi Việt-Nam muôn đời ngời sáng ngát hương.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2015(Xem: 23856)
Nói đến giáo lý Phật giáo là nói đến chữ Tâm. Ngay sau khi thành đạo, đầu tiên đức Phật thuyết về tâm (kinh Hoa Nghiêm), rồi đến khi sắp nhập Niết-bàn, Phật cũng đã dặn dò hàng đệ tử phải chế ngự tâm (kinh Đại Bát Niết Bàn, kinh Di Giáo). Phật pháp lấy tâm làm gốc. Có thể nói mà không sợ lầm lẫn, tất cả những điều đức Thế Tôn đã dạy, được hai phái Tiểu thừa, Đại thừa kết tập lại trong Tam tạng, đều nói đến chữ “tâm”. Đệ tử của Phật, thực hành theo những gì đức Phật đã giáo hóa, cho dù tu học theo tông phái, pháp môn nào, cũng không ngoài bốn chữ: “tu tâm dưỡng tánh”. Vậy tìm hiểu chữ tâm cho thấu đáo, khảo sát, thẩm cứu, thường xuyên quán chiếu về tâm, trộm nghĩ đó cũng là điều lý thú và hết sức cần thiết đối với hành giả, đấy chứ.
01/09/2015(Xem: 6826)
Khi ở trong ngôi nhà Nhật, sống với người Nhật trên đất nước Nhật và, được chủ nhà mời đi tắm, khách mới ngỡ ngàng nhận ra: Người Nhật không chỉ có “cung đạo”, “kiếm đạo”, “trà đạo”, “võ sĩ đạo”…, mà còn có “tắm đạo”! Cơm chiều xong khách được chủ nhà trao cho một cái túi vải lớn hơn bàn tay, thêu hoa văn xinh xắn, đầu túi có dây gút, bên trong có cái khăn tay, tuýp kem đánh răng nhỏ, bàn chải và một hộp bằng đầu ngón tay cái đựng chút chất dẻo màu hồng. Chủ nhà còn trao tận tay khách bộ Yukata (giống Kymono nhưng mỏng hơn dành mặc mùa Hè), hướng dẫn cách mặc, rồi giúp khách bới tóc gọn gàng. Nhìn mình tươm tất trong gương, khách thưa: “Chúng ta đi tiếp khách à?”. Chủ thân thiện: “Hây, mời khách đi tắm tập thể ạ.”. Điếng hồn chưa!
28/08/2015(Xem: 9544)
Con đường của Đức Phật là con đường xuất thế, từ bỏ mọi ham muốn và quyền lợi thế tục. Vì vậy, người ta ngạc nhiên khi thấy những Phật Tử thuần thành, nhất là giới xuất gia, lấy lập trường trên những vấn đề chính trị. Ngày 14 tháng Năm vừa qua, một số các vị lãnh đạo Phật giáo ở Mỹ, trong đó có vị Trưởng lão đáng kính, Thầy Bodhi, đã có một buổi họp ở Nhà Trắng để thảo luận những vấn đề quan trọng, khẩn cấp và hiện đại, trong đó có vấn đề thay đổi khí hậu. Sự kiện này đã gây ra một số phẫn nộ trên mạng; thật ra đây không phải là việc khó làm. Một số lập luận rằng tu sĩ Phật Giáo phải hoàn toàn tránh xa lãnh vực chính trị. Tuy nhiên, việc tăng sĩ tham gia vào chính trị không có gì là khác thường. Ở Thái Lan, có một đạo luật dành cho Tăng đòan. Tăng sĩ nước này đã từng tham gia các cuộc biểu tình trên đường phố, đấu tranh cho quyền lợi của mình. Dường như không có trường hợp tăng sĩ Thái Lan biểu tình đấu tranh cho quyền lợi của bất cứ ai khác .
21/08/2015(Xem: 7247)
Chùa Đa Bảo an vị trên ngọn Núi Cô Tiên, thuộc khóm Đường Đệ, phường Vĩnh Hòa, phía Bắc thành phố Nha Trang, được xây dựng vào năm 1996, do Đại đức Thích Giác Mai trụ trì. Những năm trước đây, vùng núi này đìu hiu quạnh quẽ, đường xá đi lại vô cùng gian nan khăn khó, nên rất ít ai được biết đến một tịnh thất đơn sơ mộc mạc hiện hữu trên ngọn núi cao dốc đứng này..
15/08/2015(Xem: 9756)
Đây là cuốn sách thứ 4 của cư sỹ sau 3 cuốn trước “Bài học từ người quét rác”, “Tâm từ tâm”, “Hạnh phúc thật giản đơn”. Cuốn sách là những trải nghiệm thật trong cuộc sống và công việc của ông.Mong rằng mỗi bài viết trong cuốn sách này giúp bạn đọc nhận ra gì đó mới mẻ, có thể là chiếc gương để soi lại chính mình.Và biết đâu ngộ ra được một chân ý cũng nên.Xin trân trọng giới thiệu lời mở đầu của chính tác giả cho cuốn sách mới xuất bản này.
30/07/2015(Xem: 6726)
Lúc hồi còn học ở Thừa Thiên, Các ôn Trưởng Lão thường dạy các Thầy các chú không nên ham biết mật ngữ trong chú nói gì mà cứ nghiệm hiểu đề danh của “Chú” là biết hết cả rồi. Chú tâm mà thọ trì do Tâm cảm tha thiết là Ứng quả rõ ràng. Dịch ra rồi, tất cả mầu nhiệm sẽ biến mất hết. Thú thật lời dạy chí thiết đó, chúng tôi tuy không dám không tin, nhưng lòng vẫn còn muốn khám phá ! Điều hiểu tất đã hiểu, vì ngay nơi đề danh như : Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắt Sanh Tịnh Độ Đà La Ni”. Đề Danh qúa rõ, “Nhổ bỏ hết cội gốc phiền não chướng nghiệp tất sanh về Tịnh Độ” Gọi tắt là Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú.
29/07/2015(Xem: 9555)
.. Phần lớn những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh ''những chiếc ghế ''. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Con người vẫn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế. Chiếu trên, chiếu dưới chẳng phải là chuyện xưa ở đình làng. Ngày nay vẫn có những người cố chiếm cho bằng được chiếc ghế cao để ung dung hưởng thụ hoặc vênh váo với đời.
27/07/2015(Xem: 6917)
Hãy nói về những kẻ không nhà, đứng nơi đầu đường, ngủ nơi góc phố. Lo toan không? khổ đau không? – Khó ai biết; chỉ thấy khi ngửa tay xin ăn thì gương mặt phải lộ ra vẻ thảm thương, tội nghiệp; và khi ngồi co ro nơi ghế đá công viên, hay dưới gầm cầu, thì cả thân người, cả thân phận, như bị gánh nặng của trời cao phủ xuống, nén xuống, tưởng chừng không bao giờ có thể vươn mình lên được.
26/07/2015(Xem: 7299)
Tôi bước xuống sân bay Cần Thơ vào một chiều nắng đẹp. Tôi ít có dịp dùng sân bay ở quê nhà vì các chuyến bay quốc tế tôi thường về Tân Sơn Nhất và ở đây không có chuyến bay kết nối đến Cần Thơ. Ấn tượng đầu tiên là sân bay sạch sẽ, dịch vụ tốt, nhân viên thân thiện, wifi miễn phí chạy êm ru. Tôi đặc biệt thích không gian mở với tầm nhìn phóng ra vườn cây xanh mướt phía ngoài. Sân bay nhỏ nhưng tươm tất, có thể nói là sạch nhất trong số những sân bay mà tôi từng biết ở Việt Nam, và cả ở các sân bay quốc tế trong khu vực Đông Nam Á. Cho điểm 10 dịch vụ cũng không phải là quá hào phóng cho một sân bay địa phương như ở đây.
24/07/2015(Xem: 9287)
Sau khi tìm thấy chú chó bị dán băng keo bịt mõm tại huyện Ba Tri, Bến Tre vào tối 22/7, đoàn cứu trợ từ Sài Gòn đã tức tốc chạy về Bến Tre để chữa trị cho chú chó. Trong quá trình gỡ băng keo ra khỏi mõm chó, nhiều người đã xót xa và bật khóc nức nở.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]