Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xuân nào là mùa xuân của ta

13/05/201312:54(Xem: 9759)
Xuân nào là mùa xuân của ta
Cho Trọn Mùa Xuân


Xuân Nào Là Mùa Xuân Của Ta

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-6Cứ giáp một vòng 365 ngày, tròn đầy 12 tháng, mọi người lại đón mừng xuân. Không ai bảo ai, nhưng ai nấy cũng đều chan chứa niềm cảm thông đặc biệt, mặc nhiên hiểu biết ý nghĩa xuân tết đến là tròn đầy một năm, là sẽ lại thêm một tuổi, là âm thầm nuôi dưỡng trong tâm tư một niềm hy vọng nhiệm mầu ở năm mới với một tương lai sáng sủa của ngày xuân tết.

Con người vốn dĩ đã sống nhiều với hoài bão, sống nhiều với kỷ niệm. Hoài bão, ước mơ một tương lai sáng sủa, ở đó có hạnh phúc tràn trề bền lâu, với một đời sống thoải mái. Nhưng hoài bão ước mơ thì bao giờ cũng vẫn là ước mơ hoài bão, và chẳng mấy khi có được như ý với hoài bão đó đâu? Do đó, nên chán nản với ước mơ, mỏi mòn với hoài bão, con người lại quay về với những kỷ niệm quá khứ. Nghĩa là, ước mơ tương lai không đạt thành như ý, rồi lại xoay về sống với những kỷ niệm quá khứ bằng ký ức bằng hồi tưởng bằng cách mỹ diệu hóa những kỷ niệm đó, để rồi đưa đến trạng thái tâm lý chán nản với hiện tại, hoài vọng tương lai, nhưng tương lai xa vời, rồi quay về tiếc nuối quá khứ. Rõ ràng thực tế thì tương lai chưa đến và quá khứ đã qua rồi! Bản tánh con người thường là chối bỏ thực tại, chán nản hiện tại, nên phóng tâm tìm về quá khứ và hy vọng tương lai! Cứ thế tâm thức con người bất an xoay chuyển luân hồi quanh quẩn lại qua quá khứ tương lai, tương lai quá khứ như thế mãi không thôi!

Nhưng tại sao con người lại tiếc nuối quá khứ hy vọng tương lai? Bởi tâm lý con người thường là bất mãn với hiện tại, dù là hoàn cảnh hiện tại hạnh phúc! Cổ nhân đã từng nói: “Sống trong hạnh phúc mà không biết hạnh phúc.” Thật vậy, có những người đang sống trong hạnh phúc mà không biết nghĩ mình đang hưởng hạnh phúc. Đầu óc cứ nghĩ nọ muốn kia, không biết thắng cương tham vọng, tâm ý lúc nào cũng loạn động, luôn luôn không vừa lòng. Do vậy, kẻ thức thời biết sống bằng lòng an vui với hiện tại, đối với kẻ tham vọng đáng thương hại nầy thường hay nói: “Đứng núi nầy trông núi nọ” là vậy. Người đã không biết mình đang sống trong hạnh phúc thì làm sao giữ hạnh phúc! Giàu sang phú quý tiền của dư thừa chưa phải là hạnh phúc. Vui sống biết đủ mới thật sự hạnh phúc.

Một thiếu nữ khi còn cái tuổi măng tơ, tâm hồn trong sáng ngây thơ được cha mẹ cưng chiều, anh chị chăm sóc. Ngày ngày cắp sách đến trường được thầy thương bạn mến, nhưng không bao giờ thiếu nữ bằng lòng với cảnh sống hạnh phúc hiện tại đó để lo chuyên tâm học hành để ngày kia nên danh nên phận. Trái lại, có lúc thiếu nữ bất mãn với cảnh sống hiện tại rồi quay ra bực bội thầm than trách phận vì cảm thấy mình không được tự do, cảm thấy mình còn nhỏ bé với cha mẹ anh chị em trong gia đình, cảm thấy mình không có quyền định đoạt, cảm thấy mình không hơn hết các bạn, cảm thấy mình bị lép vế với anh chị em, bị lệ thuộc mẹ cha, cảm thấy mình không được thầy tôn trọng thương chiều khi bài vở yếu kém. Có đủ thứ cảm thấy và đủ thứ bất mãn. Thiếu nữ mơ uớc được lớn, được tự do tự chủ, nên xoay tìm bạn trai và quả thực nơi môi trường mới nầy thiếu nữ được sự chiều chuộng tôn trọng nể vì đặc biệt! Tâm hồn thiếu nữ cảm thấy thoải mái lạ lùng! Thiếu nữ hãnh diện thấy mình lớn hơn, có quyền hơn, có người nghe theo phục tùng nên vui hơn, oai hơn, và lúc nào cũng được nam nhi khen tặng săn đón thuận ý chiều lòng như một người quan trọng trong cõi đời nầy! Thiếu nữ nghĩ rằng, thường ngày gặp nhau chỉ trong thời gian ngắn ngủi mà lòng cảm thấy an vui phơi phới như vậy. Nếu được sống gần bên nhau với bạn trai chắc sẽ phải được mãi mãi vô cùng hạnh phúc trăm ngàn lần hơn là sống với gia đình cha mẹ anh chị em. Thế rồi nẩy ý sanh tâm thoát ly.

Từ đấy, nơi lòng thiếu nữa đã nẩy nở nguồn vui hạnh phúc với “người dưng khác họ đem lòng nhớ thương.” Từ nhớ thương đưa đến thái độ dứt khoát xa cha mẹ gia đình để sống gần với người bạn khác họ kia với lòng hy vọng hưởng những ngày cưng chiều hạnh phúc bền lâu. Nhưng thực tế thì hạnh phúc nầy quá ư giả tạo ngắn ngủi như bọt nước cầm tay, để rồi tiếp theo sau đó thiếu nữ mất dần đặc tánh hồn nhiên trong trắng và phải sống trong những ngày ràng buộc bất mãn lo âu, sống trong trạng thái suy thường trực đối phó, và từ từ chìm sâu vào phiền lụy buộc ràng ngày càng xiết chặt hơn! Về lâu thiếu nữ thấm mệt chán nản, bất mãn với cuộc sống mới hiện tại nầy. Những ngày tình tứ chiều chuộng đẹp kia phai dần, liền tiếp theo đó sợi dây vô hình buộc ràng xiết chặt càng thêm xiết chặt, lo âu bất mãn càng thêm bất mãn lo âu! Ngày mới gặp nhau có cảm tưởng đắm say tuy hai mà một, nhưng về lâu chung đụng thân gần thì tuy một mà hai! Bây giờ thiếu nữ ngồi hồi tưởnglại tiếc nuối những ngày trẻ thơ đã qua với bao kỷ niệm êm đềm khi còn sống với mẹ cha anh em thầy bạn. Những kỷ niệm quá khứ đã không bao giờ trở lại! Thiếu nữ không dám thật tâm nhìn thẳng vào cuộc sống thực tại, vì thực tại dồn dập bất mãn phũ phàng, nên chỉ còn biết mơ ước một tươnglai êm đềm sáng sủa hơn! Nhưng tương lai hãy còn xa vời trong mơ tưởng chắc gì có hạnh phúc chân thật?!

Tâm thức con người khổ đau vì bất mãn với thực tại. Nguồn gốc của sự bất mãn khổ đau là mơ mộng không tưởng, tham vọng ích kỷ.

Hạnh phúc vĩnh viễn của con người là khi nào con người biết sống tri túc, biết sống từ tốn khiêm nhường, biết nhìn thẳng vào thực tại và sống với thực tại, biết mình biết người. Người biết tri túc thì dù nằm ngủ dưới đất, ở nhà tranh vách lá, ăn cơm hẩm muối dưa sống đời thanh đạm cũng vẫn cảm thấy hạnh phúc. Người sống biết mình biết người, thì dù là làm đồ đệ, làm người cận vệ, cuộc sống chân lấm tay bùn cũng vẫn hạnh phúc. Phải nhìn thẳng vào thực tại và biết mình là ai, an phận thủ thường thì mới cảm nhận được hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có với người biết sống tri túc thường lạc. Đạt đến tâm cảnh này mới thật là mùa xuân an lạc vĩnh viễn.

Ngược lại, kẻ lòng đầy tham vọng ích kỷ chỉ biết mình mà không biết người, đua đòi theo danh lợi ái tình, bôn ba bắt bóng hạnh phúc thì dù có trăm ngàn mùa xuân đến, muôn vạn chim yến lượn, ngàn phương hoa rộn nở, họ cũng vẫn không thấy được mùa xuân, vẫn cảm thấy cõi lòng họ không được an lành, đời họ vẫn không được thanh thản. Bởi tâm ý đầy đặc tham vọng, nên lúc nào cũng tranh hơn sợ thua, lòng họ lúc nào cũng tham muốn làm cha làm vua thiên hạ. Vì tham vọng, nên cõi lòng cuộn trong đất bùn rác bẩn, tâm trí vô minh không còn phân định thị phi thiện ác, mất hết lương tâm liêm sỉ, tự nghĩ mình phải hơn, nên không bao giờ thỏa mãn hiện tại, tiếc nuối những gì đã mất, sợ sệt lo âu những gì sẽ mất. Vì tâm đắm chìm trong tham danh đạt lợi, nên họ phải ngồi bóp trán tính suy mưu thần chước quỷ để phá hủy, để hãm hại người khác, hầu mong được phần hơn về mình. Những tâm hồn như thế lúc nào cũng cảm thấy mùa đông giá buốt, mùa hè nóng bức, và luôn luôn sống trong hồi hộp lo âu bực tức, uất ức, bất mãn, hận thù. Nghĩa là vĩnh viễn không bao giờ có mùa xuân an lành chân thật với họ.

Với người con Phật phải làm thế nào để có mùa xuân chơn thường an lạc miên viễn?

Mỗi năm vào đêm ba mươi giao thừa, người con Phật cử hành lễ rước vía Di-Lặc, đồng thời cũng là lễ tống cựu nghinh tân. Tống cựu nghinh tân có nghĩa là tống khứ cái cũ, điều thoái hóa, bất hạnh đi, để tiếp đón cái mới, tiến bộ, điều may mắn an vui hạnh phúc đến. Nhưng sự thật trong đời người đã biết bao nhiêu lần tống cựu nghinh tân, đón mừng xuân tết, đã biết bao lần hy vọng mùa xuân mới đến với ước ao được hưởng hòa vui hạnh phúc mà có bao giờ hòa vui hạnh phúc thực sự đến với mình như lòng mong đợi đâu? Thử nhìn kỹ vào chiều sâu thẳm của khổ đau và hạnh phúc, chúng bắt nguồn từ đâu? Phải chăng khổ đau và hạnh phúc đều do chính lòng mình? Như chiếc huy chương có hai bề mặt trái! Phật dạy, tất cả đều do tâm tạo. Không làm nô lệ cho tham dục thì làm gì có sự truy cầu đuổi bắt danh lợi ái ân thất vọng? Mà đã không có truy cầu đuổi bắt theo dục vọng, không ước mong thỏa mãn thì làm gì có khổ đau? Không thấy mình quan trọng giữa cuộc sống xã hội thì làm gì cảm thấy thua thiệt thấp cao? Mà đã không cảm thấy thua thiệt thấp cao thì làm gì có trào dâng nghẹn ngào uất hận, buồn tức khổ sầu bởi tranh giành ganh tị.?

Hình ảnh đức Di-Lặc đã nói lên tinh thần hỷ-xả vị-tha muôn thuở. Hoa xuân hạnh phúc rộn nở cả người Ngài và tỏa khắp cả trần gian. Trong giờ phút linh thiêng trừ tịch tống cựu nghinh tân đón mừng xuân tết, người đệ tử Phật thành kính đối diện trước tượng Ngài cử hành đại lễ giao thừa tống cựu nghinh tân, thử hỏi tận đáy lòng của tâm thức sâu thẳm kia có thật sự chân thành tha thiết lấy tâm từ bi hỷ xả của đức Di-Lặc để bồi dưỡng tâm mình, lấy đức độ bao dung của Ngài làm gương sáng soi lại lòng mình, để hồi quang quán chiếu một năm qua mình đã bao lần lạy Phật, và cho đến ngày giờ trừ tịch giao thừa nầy sẽ nhận thêm một tuổi nữa mà tâm hồn mình đã thực sự có chút nào tiến bộ trong chiều hướng thánh thiện không? Theo dòng thời gian năm tháng, theo lễ tống cựu nghinh tân, nghĩa là bỏ xấu ác để hướng về hào quang lành thiện năm mới, ta đã đích thực quyết tâm tống khứ tham dục ích kỷ nơi lòng, để đón nhận hương hoa xuân tết hỷ xả vị tha từ đức Di-Lặc? Ta đã thật sự tiếp nhận nguồn từ bi hỷ xả bao la nơi Ngài chưa? Nếu chưa tiếp nhận nguồn an lạc trong lành, thì việc cử hành lễ giao thừa rước vía Di-Lặc chỉ là lễ lạy Ngài bằng thân xác áo y, bằgn hương hoa hình thức mà lòng còn đầy ngã-si ngã-kiến ngã-mạn ngã ái, tham sân chấp ngã đầy người, như thế sự lễ bái cũng chỉ là một hình thức tô điểm thêm cho lòng tham vọng tăng trưởng mà thôi, chứ chưa thật sự gột rửa tâm tư thanh tịnh để sống trong hạnh phúc an lành của trời xuân Di-Lặc nơi lòng ta. Nghĩa là ta chưa tỉnh thức, chưa thoát thế lực vô minh của tâm hồn!

Để cho đức hỷ xả Di-Lặc thấm nhuần trong thân tâm, để cho lòng ta rộng mở nở nụ cười hoan hỷ trên đôi môi từ hòa, để cho đời ta được thanh thản giải thoát, ta hãy nhìn vào hình dung đức Di-Lặc, lấy đức tánh Ngài làm gương sáng chiếu tâm, lấy đạo hạnh Ngài làm mực thước hành nghi để gột rửa cõi lòng, điều chỉnh hành vi, ngõ hầu phản tỉnh thanh tịnh nhìn sâu vào đức Phật đương lai Di-Lặc để từ đó tận hưởng mùa xuân tràn đầy hạnh phúc:

Hãy nhìn sâu vào bóng dung Từ phụ
Đôi mắt Ngài cả nguồn biển tình thương
Nụ cười Ngài! Ôi giải thoát không lường
Hồn thanh thoát lạc giữa vườn hoa đạo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2014(Xem: 7554)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9050)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 14222)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8151)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 12807)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8444)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10009)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9337)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8327)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 8688)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]