Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mùa Xuân Thường Tại

13/05/201312:49(Xem: 10103)
Mùa Xuân Thường Tại
Cho Trọn Mùa Xuân


Mùa Xuân Thường Tại

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-9Nói đến xuân là nói đến cỏ cây đâm chồi nẩy lộc xanh tươi, hoa cười bướm lượn, người người hòa vui với áo quần mới đẹp, với lời chúc tụng may mắn, với niềm hy vọng an lành hạnh phúc vô biên ở năm mới.

Nói đến thường hoan hỷ, là người ta nghĩ đến đức Di-Lặc. Với đức tướng Di-Lặc người ta liền hình dung ông Phật có nét đặc biệt, thân hình tròn đầy, bụng lớn, miệng luôn luôn nở nụ cười muôn thời muôn thuở. Nụ cười Di-Lặc là nụ cười hả hê tràn trê nguồn vui hy vọng chan hòa rộng mở chứa chan nguồn sống vũ trụ bao la. Bụng lớn Di-Lặc bao dung niềm hân hoan của đất trời muôn loại.

Xuân Di-Lặc tượng trưng cho nguồn vui bất tận, tượng trưng cho sự linh hoạt hân hoan vui tươi nẩy nở của vạn vật khắp cả đất trời. Xuân Di-Lặc tượng trưng cho nụ cười hạnh phúc khắp không gian và suốt cả thời gian, không phai tàn, không biến dịch, suốt thông rộng dài và mãi mãi vô biên giới.

Muốn có mùa xuân Di-Lặc bất tận bao la chan hòa nguồn sống vũ trụ vạn vật thì trước nhất phải tạo cho chính mình bầu trời tâm tánh lành thiện thanh tịnh an nhiên. Khi lòng còn phiền não, tâm còn ô trược, ý còn lăng xăng mơ tưởng mông lung dẫy đầy ước muốn, thì khó tránh khỏi chao động vui buồn theo cảnh trần thịnh suy, thăng trầm, vinh nhục, mất còn hợp tan:

Khi chưa có ta, đường đi thênh thang
Kịp đến khi có ta, chông gai mênh mang

Nếu tâm chưa thanh tịnh thênh thang, lòng chưa an định tỉnh sáng, thì khó tránh khỏi lung lạc trước quyến rũ của gió đời ngũ dục. Bởi lẽ ngũ dục: tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn uống, chơi ngủ, năm thứ dục lạc này xưa nay đã quật ngã bao kiếp anh hùng, chí sĩ và cả đến những kẻ sắp thành vĩ nhân đều phải bị cuốn chìm vào hố thẳm dục lạc tăm tối. Ngũ dục thế gian có sức mạnh cuốn hút xô đẩy lớp lớp người trong nhân loại rơi vô tình sâu vào hố hầm tội lỗi đọa đày vong thân thất chí. Ngũ dục thế gian tự bản tánh của nó vô tình vô tư, nhưng bởi lòng người thèm khát ước ao dính vào muốn được mà phải tan tác đắng cay!

Khi lòng chưa thanh tịnh thì khó tránh khỏi dục tình, tất nhiên còn vướng mắc phiền não. Dĩ nhiên tâm còn vẩn đục thì ý chí khó thanh cao, thế giới tâm linh không thể nào hòa điệu cùng thế giới bao la đầy hương sắc của vũ trụ. Hương sắc nhạc điệu trời xuân vũ trụ thường hằng mà thế giới tâm linh lạc điệu với thế giới vũ trụ. Bởi con người theo dòng thác lũ thời gian cuốn phăng, bị vùi dập đập tan trong những trận cuồng phong của dòng tâm thức bất giác sôi động nhân ngã, để rồi cuối cùng bị vật vã, nhận chìm vào đáy thẳm biển cả của tối tăm của phiền não ngục tù. Nếu không biết sống với thực tại nội tâm, không biết sống với chính lòng mình, không can đảm nhìn sự thật, không dứt khoát vất bỏ phàm tình để xa lìa thế lực vô minh, đồng thời chính bản thân không cải thiện thì nhất định sẽ bị dòng đời cuống phăng như bọt bèo theo lượn sóng xuống lên trên biển cả, và suốt đời bị đay nghiến, nghiệt ngã bởi tham muốn dục lạc mà vẫn mãi chưa tìm ra hạnh phúc của trời xuân. Thi nhân đã nhận chân cuộc sống vốn dĩ tan hợp, thấu rõ sự đời vốn là mộng huyễn, định luật vô thường lưu chuyển đào thải không ngừng. Nếu con người không tỉnh ngộ, mà cứ sống buông thả theo vọgn tình tham đắm dục lạc thế gian thì chẳng khác chiếc thuyền nan bé nhỏ lênh đênh trên biển cả đầy sóng gió ba đào mù mịt, thì thật khó thoát khỏi cuốn trôi nhận chìm:

Trường-Giang cuộn chảy suốt ngày đêm
Cuốn trôi cây cỏ ở bên thềm
Thuyền nan ai đó nhận chìm nốt
Bao kẻ ngẩn ngơ dại yếu mềm

Thế gian vô thường mộng huyễn lưu chuyển không ngừng đã nhận chìm biết bao người đời mê dại đuổi bắt ái tình lợi danh, cuộn trôi bao kẻ anh hùng tham đắm dục lạc trần gian, để phải lang bạt một đời vô nghĩa. Bởi tâm đắm nhiễm chấp trước rượt bắt bóng công danh hạnh phúc trần gian mà phải lạc lối nổi trôi theo dòng nước vô thường cuốn hút không tìm ra lối thoát.

Khi tâm thanh tịnh, lòng an định, tâm tư gột sạch não phiền tham, sân, si, ích kỷ, đố kỵ, kiêu mạn, tự hào thì lúc ấy cõi lòng tự nhiên rộng nở hoa xuân, thanh thản thênh thang ngạt ngào hương giải thoát. Hoa tâm bừng nở hòa điệu cùng hoa xuân vũ trụ, thì đâu đâu cũng là xuân, tự nhiên nhịp nhàng trong thanh khí an lạc của xuân Di-Lặc chơn thường muôn thuở.

Bồ Tát Di-Lặc lúc nào cũng cười, nụ cười hồn nhiên, cởi mở với tâm lượng bao la, tràn trề nguồn xuân hoan hỷ bất tận, rộng mở cõi lòng xuân, tràn ngập nguồn sống, suốt không gian và khắp cả thời gian. Ngài đã xả bỏ ngũ dục, sạch hết phàm tình, đạt đến cảnh giới tâm linh vô cùng chan hòa với thế giới vũ trụ bao la, rộng trải tình thương bình đẳng, nhập diệu đức tánh hài hòa bao dung hỷ xả, tâm không mảy may vướng bận nhân ngã, thị phi, lòng rũ sạch cấu uế ngũ dục, phiền lụy thịnh suy, vinh nhục của trần thế, nên Ngài đạt được nụ cười tự tại, vô ngại hòa điệu cùng xuân chơn thường chơn ngã, ấy là xuân Di-Lặc.

Thế nên, mỗi độ xuân về là dịp để chúng ta hồi quang phản chiếu tự tâm tự tánh, là dịp để cho chúng ta tự xét lại lòng mình: Một năm qua ta đã làm gì lợi ích cho chính bản thân ta chưa? Ta đã làm gì lợi ích cho gia đình quyến thuộc, đồng bào xứ sở, nhân loại chưa? Hay ta cũng vẫn sống miệt mài bo bo trong cái vỏ tư lợi cá nhân, ích kỷ vợ con, chỉ biết dong ruổi chụp bắt kiếm được nhiều tiền để hưởng thụ? Hay chỉ biết cơm no, áo ấm nô lệ cho cái thân tạm bợ nhớp nhơ này, mà không có một phút giây thanh thản bình tâm quán chiếu nội tại tâm tánh mình để mở rộng tình thương.

Làm việc lợi ích, tu nhân tích đức bòn phước, tập sống đời vị tha, thanh tịnh hóa đời sống không phải đợi đến khi tiền nhiều, có danh vọng quyền thế mới làm, mà phải biết thể hiện tâm lành thiện ngay bây giờ, tùy theo khả năng mình có, hoàn cảnh mình đang sống. Nếu cứ đợi đến khi giàu có, quyền danh rồi mới tu tâm sửa tánh, hành thiện lợi tha, làm việc phước đức, thì đó là quan niệm rất ư sai lầm không thực tế, mà xưa nay đã biết bao người nhầm lẫn vấp phải. Đâu biết rằng, một khi đã có tiền bạc quyền thế, tâm lại sanh ra đủ thứ dục vọng nặng nề, bạn bè lôi kéo rủ rê, những điều ưóc mơ này khác trói buộc che mờ tâm trí, theo đó tâm lành, lòng thương cũng bị tê dại chết dần. Cho nên cổ nhân nói: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ.” Bạn là người giúp đỡ ta trên đường công danh sự nghiệp. Vợ là kẻ ân tình cùng chung cuộc sống, chia vui xẻ buồn mà khi được giàu có danh vọng còn ruồng bỏ đổi thay, thì thử hỏi trên đời này còn ai thân thiết gần ta hơn nữa? Nhất là tâm vô thường luôn luôn thay lòng đổi ý, phút trước nghĩ như thế này, giờ sau lại đổi khác, nói chi đến ngày mai, năm sau?

Cho nên thói thường phần đông con người một khi đã có tiền bạc danh vọng thì lòng trở nên keo kiết bỏn xẻn và tâm trí thường sống trong quỷ quyệt, thủ đoạn đua đòi không thôi – “được voi đòi tiên,” ít khi có nẩy nở mối từ tâm lợi tha trong tâm hồn kẻ trưởng giả phú quý! Chỉ có những kẻ giàu sang mang nặng tâm Bồ-đề mới có lòng từ bi quảng đại để làm việc nghĩa vô vụ lợi. Nhan nhản trong cuộc sống hằng ngày cho ta thấy, người nghèo thích tu tâm hành thiện làm việc phước. Do đó, ta phải biết tùy theo khả năng mình có, hoàn cảnh mình đang sống để thực hành những điều lợi ích cho đời. Lợi ích cho đời cũng chính là hương hoa tô điểm đạo hạnh phước đức và nguồn an lạc cho chính mình thêm ngát hương.

Để đạt mùa xuân Di-Lặc hạnh phúc miên trường muôn thời muôn thuở, vun bồi tận hưởng mùa xuân đạo hạnh thanh thoát, ta phải ý thức một cách rõ ràng rằng, mỗi lần xuân về, ta lại bước gần kề đến bờ già chết, biệt ly. Mỗi lần nghinh rước xuân trần gian, xuân của tháng năm thời tiết, ta nên cẩn trọng tự xét lại lòng mình, để những phút giây suy tư quán sát hành nghi tâm niệm suốt dòng năm tháng đã qua, hồi quang phản chiếu, cố gắng gạn lọc tâm ý, đoạn trừ phiền não, tạo cơ hội học hỏi đạo pháp, tu tâm dưỡng tánh, tích cực thực hành việc phước thiện, tích lũy công đức, hương đời mình trên đường thánh thiện. Luôn luôn nhớ như thế và làm được như thế là ta dễ dàng tiếp nhận nguồn sống an lành trong ánh sáng xuân dương với muôn ngàn hoa bướm ngát hương đón chào, và đồng thời tắm mát ánh xuân Di-Lặc muôn thời muôn thuở ngập tràn vũ trụ nguồn an lạc, hạnh phúc. Xuân chỉ thật sự có với những cõi lòng thanh tịnh. Hạnh phúc thật có với những người biết tri túc, buông xả. Ấy là đạt được mùa xuân thường tại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5575)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5484)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6896)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4284)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9112)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5449)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5069)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5655)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6147)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5161)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]