Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần thứ IV: Các bài sám văn cầu an cầu siêu

10/05/201317:48(Xem: 15798)
Phần thứ IV: Các bài sám văn cầu an cầu siêu

Tuyển tập các bài sám văn - Tập III: 55 Bài sám văn âm nghĩa sưu tập

Phần thứ IV: Các bài sám văn cầu an cầu siêu

Thích Đồng Bổn sưu tập

Nguồn: Thích Đồng Bổn sưu tập

143 - SÁM CẦU NGUYỆN
TRAI TĂNG


Nay tín chủ lòng thành phát nguyện,
Lễ cúng dường phụng hiến chư Tăng.
Sắm sanh vật uống, thức ăn,
Thuốc men, mùng chiếu, áo chăn cúng dường.
Là tứ sự thông thường mọi việc,
Sắp gom vào một tiệc trai Tăng.
Lễ này vốn lễ cầu an,
Hiền tiền phụ mẫu được ban phước nhiều.
Và cũng để cầu siêu báo bổ,
Trong Cửu Huyền Thất Tổ từ xưa.
Ðược nhờ ân đức móc mưa,
Tiêu diêu khoái lạc phước thừa sanh thiên.
Cùng nội ngoại hai bên cật ruột,
Tổ tông đồng quyến thuộc lục thân.
Kẻ xa cho chí người gần,
Thảy đều thọ hưởng phước phần vẻ vang.
Lòng tin tưởng trong hàng Tăng chúng,
Bủa đức lành mưa phún nước rơi.
Từ bi thương xót cứu đời,
Ra ơn chú nguyện như lời cầu xin.
Vậy gom cả tâm linh hòa nguyện,
Phước lành nầy phổ biến thế gian.
Chúng sanh khắp cõi các hàng,
Siêu vòng nghiệp chướng thoát đàng trầm luân.
Xứ xứ thảy thấm nhuần đạo đức,
Người người đều ra sức cần tu.
Mưa hòa gió thuận êm ru,
Trăm nhà phước lạc muôn thu thái bình.
Ðịa ngục bớt hãm hình thống khổ,
Ngạ quỉ thường được chỗ siêu lên.
Súc sanh vượt cõi thấp hèn,
Theo duyên tiến hóa đua chen lần lần.
Ðường thiện đạo chư thần cải dữ,
Cõi nhơn người biết xử khoan dung.
Nhịp nhàng theo lẽ sống chung,
Chư thiên hòa hiệp thảy đồng yên vui.
Mớ vật chất lấp vùi hố thẳm,
Nẻo tinh thần bước giẫm lên cao.
Thánh vương phải mặt anh hào,
Hiền thần đức hạnh thanh cao dạy đời.
Dân lành biết giữ lời khuyến nhủ,
Chỉ chuyên lo chăm chú tu hành.
Không người giàu có ỷ mình,
Không người nghèo khổ, ghét ganh khích hiềm.
Chốn tù tội ngày đêm trống vắng,
Nạn điên khùng mất hẳn hôn trầm.
Ăn xin, đui, điếc, què, câm,
Bao nhiêu những cảnh thương tâm chẳng còn.
Núi xương trắng mau mòn thán oán,
Biển máu đào chóng cạn thù hằn.
Bầu trời độc khí tiêu tan,
Mùi hương bác ái thơm lan khắp cùng.
Chúng sanh biết tôn sùng Phật Pháp,
Tiếng kệ kinh lấn áp lợi danh.
Ai ai lánh dữ về lành,
Bến mê Ðông độ đổi thành Tây phương.
Không còn phải vấn vương tứ khổ,
Nỗi khổ sanh đến độ khổ già.
Khổ đau oằn oại rên la,
Ngặt nghèo khổ chết, xót xa bi sầu.
Kỉnh đức Phật nhiệm mầu đạo chánh,
Trọng chư Tăng khổ hạnh công dày.
Quí yêu Pháp bảo bực thầy,
Biết cây đuốc sáng hiệp vầy nương theo.
Kẻ sống chớ giàu nghèo xao xuyến,
Người thác đừng lưu luyến tríu mê.
Sanh giả không, tử giả không hề,
Sống nương cõi tạm, thác về quê xưa.
Vong linh được cải chừa nghiệp dữ,
Giữa ngày nầy tứ sự cúng dâng.
Là ngày tín chủ trai Tăng.
Cầu siêu nghiệp tội vong nhân bấy chầy.
Ðược thọ thưởng đủ đầy phẩm thực,
Lại chi dùng phước đức dồi dào.
Thêm nghe nhạc Pháp thanh tao,
Vội vàng thức tỉnh xôn xao qui đầu.
Lối tham chấp từ lâu được giải,
Nợ buộc ràng oan trái dứt tiêu.
Cất mình bay nhẹ cao siêu,
Thung dung khoái lạc tiêu diêu thanh nhàn.
Người hiện tại bình an thơ thới.
Sức khỏe tăng, phấn khởi tinh thần,
Sống lâu tuổi thọ thêm phần,
Trí thông, huệ sáng, sắc thân tốt màu.
Ý nghiêm mật giồi trau đức hạnh,
Mắt tinh vi theo chánh bỏ tà.
Ðoan trang mặc áo nhu hòa,
Ngồi tòa thanh tịnh, vào nhà Từ Bi.
Học thấu suốt huyền vi phép nhiệm,
Diệt tâm phàm vọng niệm chẳng sanh.
Tập trung tư tưởng điển lành,
Hào quang rạng chói chung quanh đỉnh đầu.
Bồ đề nguyện đạo mầu chứng đắc,
Bồ Tát thân dìu dắt thế trần,
Trang nghiêm thị hiện oai thần,
Ðộ trong sanh chúng tinh cần chuyên tu.
Người người biết công phu thiền định,
Dưỡng tinh thần thanh tịnh tự nhiên,
Cõi đời biển ái lặng yên,
Sông mê trong vắt não phiền còn đâu.
Chúng sanh thảy quay đầu bến giác,
Kẻ sống vui, người thác nhẹ nhàng,
Ðàn na tín thí công ơn,
Phước điền rộng đức, huệ sơn cao tài.
Hữu tình vốn nhơn loài động vật,
Vô tình là cây đất bao đồng.
Thảy đều đắc quả thành công,
Cả nên Phật đạo hiện trong kiếp này.*

144 - KỆ VĂN VÔ SINH NIỆM PHẬT


“Lửa mồi ánh chớp có gì đâu ?
Ân ái sao còn quấn quít nhau !
Một túi da khô đầy bảo vật,
Tấm thân vàng kệch rượu cơm bầu.
Luân hồi sống chết ai là khỏi,
Tờ lệnh Diêm La kíp tới hầu,
Phúc tội tóc tơ bày rõ hết,
Phân minh sổ sách trước như sau.
Cột đồng giường sắt trông ghê khiếp,
Than khóc kêu gào tránh được đâu ?
Hối lại tu hành e đã muộn,
Ðầu thai làm kiếp ngựa hay trâu.
Nghiệp duyên chồng chất quên đời trước,
Nhờ Phật rồi đây mới thoát cầu,
Một điểm “Chân như” ai nấy sẵn,
Thoát vòng sinh tử niệm lên mau.
“Quạ bay, thỏ chạy chóng như thoi,
Than hỡi ! Ðời ta được mấy hồi,
Chỉ cõi Tây phương nơi Lạc cảnh.
Quay đầu ta kíp niệm đi thôi !
Nam mô A Di Ðà Phật (1 tràng)
Dù cho nhà ngọc với kho vàng,
Cảnh đến Vô thường khó nỗi mang,
Chỉ cõi Tây phương nơi Lạc cảnh,
Quan Âm Bồ Tát độ cho sang.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 tiếng)
Sống lâu bảy chục mấy ai đâu,
Trăm tuổi xem như bóng ngựa câu.
Chỉ cõi Tây phương nơi Lạc cảnh.
Cầu xin Thế Chí độ sang mau.
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ Tát (10 tiếng)
Giơ tay, cất bước tội ngang mày,
Ðịa ngục đao sơn cửa rộng thay,
Chỉ cõi Tây phương nơi Lạc cảnh,
Cầu xin Ðịa Tạng độ sang ngay.
Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát (10 tiếng)
Hàm đan giấc mộng có hay chi ?
Cuộc thế lân la cái nỗi gì ?
Chỉ cõi Tây phương an lạc cảnh.
Thanh Tịnh Bồ Tát độ cho về.
Nam mô Thanh Tịnh Hải Chúng Bồ Tát (10 tiếng)
Nguyện vong chóng sinh sang Tịnh độ,
Ngôi cửu liên là chỗ náu nương,
Vô sinh, sen nở ngát hương,
Chư tôn Bồ Tát bên đường tiếp nghinh.
Chốn ao báu muôn sen đua nở,
Phật Di Ðà, Thế Chí, Quan Âm,
Tiếp hồn lên cõi Lạc tâm,
Phát lời thệ nguyện dự phần tiêu dao.*

145 - SÁM TIÊU TAI GIẢI HẠN


Con nay dốc hết tâm thành,
Kính lạy đức Phật Xí Thạnh Quang Vương.
Nếu con sắp bị tai ương,
Cúi xin chư Phật đoái thương giải nàn:
La Hầu hay bị tai oan,
Tháng giêng, tháng bảy vô vàn điêu linh.
Con nguyền học đạo sửa mình,
Sân si dứt sạch, Phúc tinh phò trì.
Thổ Tú, Thủy Diệu sầu bi,
Tháng tư, Tháng tám thiếu gì nhiễu nhương.
Cúi xin Phật Tổ xót thương,
Giúp cho con được gia đường bình yên.
Thái Bạch hết sạch cửa nhà,
Tháng năm tan tác vào ra bực mình.
Khẩn cầu Cửu Diệu Thất Tinh,
Cứu con thoát khỏi điêu linh cửa nhà.
Thái Dương tiền bạc kiếm ra,
Tháng mười, tháng sáu cửa nhà bình an.
Con hằng tâm nguyện vái van,
Cầu cho con được an nhàn thảnh thơi.
Vân Hớn dù có nói chơi,
Tháng hai, tháng tám bị lời thị phi.
Con nguyền học đạo Từ bi,
Nhớ lời Phật dạy, khắc ghi vào lòng.
Kế Ðô gia thất long đong,
Tháng ba, tháng chín, xa chồng xa cha.
Khấn cầu đức Phật Thích Ca,
Quán Âm phò hộ cửa nhà bình yên.
Thái Âm, mười một truân chuyên,
Tháng chín tốt đẹp, của tiền khá ra.
Khuyên người theo chánh bỏ ta,ø
Trau giồi đức hạnh, mới là chân tu.
Mộc Ðức, bổn mạng không xui,
Tháng chạp, phúc lộc, hưởng vui, thanh bình.
Gắng lo bố thí, phóng sinh,
Ðể cho hết thảy gia đình bình an.
Nguyện cho Ðại hạn tiêu tan,
Tiểu hạn hết sạch, an nhàn thảnh thơi.
Nguyện cho con được đời đời,
Hành Bồ Tát đạo, cứu người lầm than.*

146 - SÁM KỆ GIẢI NGHIỆP SÚC SINH


Chúng sanh đấy có bấy nhiêu,
Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn :
Các ngươi trước lòng trần tục lắm,
Nên kiếp này chìm đắm sông mê.
Bấy lâu chẳng biết tu trì,
Gây bao tội ác lại về mình mang.
Sống đọa đày chết thường đau khổ,
Lông, da, sừng có đỡ được đâu,
Dù là bay trước lặn sau,
Lưới vây, tên bắn, lưỡi câu thả mồi.
Tát cạn bắt cùng hơi hun độc,
Lúc đó dù kêu khóc ai thương,
Nằm trên chốc thớt lạ thường,
Hồn còn phảng phất nấu rang xong rồi.
Muôn phần chết nay ngươi cầm chắc,
May sao nhờ các bậc thiện nhân,
Cứu cho ngươi được thoát thân,
Ðến đây lại được nhờ ân pháp mầu.
Vậy ngươi kíp hồi đầu quy Phật,
Cùng dốc lòng quy Pháp quy Tăng,
Quy rồi tội chướng sạch băng,
Trí khôn sáng tỏ tưng bừng khắp nơi.
Phát tâm tu sau rồi được hưởng,
Về phương Tây sung sướng đời đời,
Lên tòa sen hưởng thảnh thơi,
Không hề luân chuyển yên vui tháng ngày.
Xin đại chúng ra tay cứu khổ,
Phát tâm cầu Phật độ chúng sanh,
Cùng nhau dốc một lòng thành,
Cầu cho thoát khỏi trong vành trầm luân.*

147 - VĂN CÚNG CỬU HUYỀN THẤT TỔ


Thành kính lạy Cửu Huyền Thất Tổ,
Ngỏ đáp ơn báo bổ sanh thành,
Con quy y Phật tu hành,
Cửu Huyền Thất Tổ lòng thành chứng tri.
Noi theo hạnh từ bi của Phật,
Bỏ dứt đi những tật xấu xa,
Trau giồi đức hạnh thuận hòa,
Ðạo thành cứu độ Mẹ, Cha, Cửu Huyền.
Nay phẩm vật hiện tiền dâng cúng,
Hương, đăng, hoa chúc tụng cầu xin,
Cửu Huyền Thất Tổ hương linh,
Chứng lòng hiếu thảo ân sinh thuở đầu.
Công dạy dỗ cao sâu thăm thẳm,
Công dưỡng nuôi khó gẫm gì hơn,
Ăn cay, uống đắng không sờn,
Vì con đau khổ không hờn phiền chi.
Cha mẹ rất từ bi hà hải,
Nội ngoại đồng bác ái tình thương,
Cửu Huyền Thất Tổ đồng nương,
Từ đời vô thỉ khôn lường kiếp sinh.
Ân dưỡng dục minh minh như hải,
Ân sanh thành tợ Thái Sơn cao,
Con nay muốn đáp công lao,
Ðền ơn trả nghĩa thế nào cho xong.
Lời Phật dạy mênh mông biển khổ,
Cõi Ta bà không chỗ dựa nương,
Chúng sanh vì bởi tình thương,
Tình ân, tình ái mà vương nghiệp sầu.
Sanh tử mãi biết đâu mà kể,
Cứ trầm luân trong bể ái hà,
Cũng vì bản ngã chấp ta,
Tham lam, sân giận, cùng là si mê.
Những tội lỗi không hề dứt bỏ,
Ðường tử sanh nên khó bước qua,
Làm con muốn cứu mẹ cha,
Cửu Huyền Thất Tổ, ông bà đền ân.
Ðem phẩm vật cúng dâng Tam Bảo,
Nhờ chư Tăng tâm đạo cầu nguyền,
Cầu cho Thất Tổ Cửu Huyền,
Siêu sinh Tịnh độ phước duyên đủ đầy.
Ai muốn đáp công thầy dạy dỗ,
Hay đền ơn Thất Tổ Cửu Huyền,
Chúng sanh tất cả các miền,
Thì nên phát đại lời nguyền độ tha.
Trước xuất thế lìa xa cõi tục,
Sau diệt tiêu lòng dục, tánh phàm,
Chẳng còn ưa chuộng, muốn ham,
Thân tâm thanh tịnh, Già lam dựa kề.
Tu chứng đắc Bồ đề Phật quả,
Ðộ chúng sanh tất cả siêu thăng,
Vượt lên cửu phẩm thượng tầng,
Là phương trả nghĩa đáp bằng công lao.
Ai hiếu tử mau mau ghi nhớ,
Muốn đáp đền mối nợ từ xưa,
Cần nên tu niệm sớm trưa,
Công dầy quả mãn phước thừa báo ân.*

148 - VĂN CÚNG TỔ TIÊN


Ðốt nén hương thơm,
Chí tâm bái thỉnh :
Trời đẻ, đất nuôi,
Ðức che chở lấy gì lường kịp;
Nước nguồn, cây gốc,
Công bón vun biết sánh chi tầy.
Ðây nền nhân, đây nền nghĩa,
Do Tổ tiên gây dựng mà nên ;
Nọ lá ngọc, nọ cành vàng,
Bởi công đức chất chồng mới có.
- Hiểu đạo nghĩa mới thành gần gũi ;
Rõ nguồn cơn sẽ chẳng xa đâu.
- Dù âm dương, u hiểm khác nhau
Nhưng Phật pháp đề huề thật dễ.
- Xin nguyện Tổ tiên chư linh :
Trượng phép mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ chân ngôn bí mật tối linh,
Về đây thụ hưởng đan thành,
Nén hương bát nước cơm canh cúng dàng.
- Lại đốt hương thơm, hai phen triệu thỉnh:
Công Tổ tiên non cao biển rộng,
Phận cháu con phải cúng phải thờ ;
Nén hương nghi ngút khói đưa,
Chư linh phảng phất như vừa đâu đây.
Xin triệu thỉnh về ngay thụ hưởng
Chút tâm thành nhất hướng kính dâng,
Trượng thừa Tam Bảo gia ân,
Hộ trì tiếp dẫn dự phần trai nghi.
Xin nguyện chư linh :
Trượng phép mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ chân ngôn bí mật tối linh,
Về đây thụ hưởng đan thành,
Nén hương bát nước cơm canh cúng dàng.
Nam mô An Bảo Tọa Bồ Tát Ma Ha Tát.*

149 - VĂN CÚNG CHA MẸ


Ðốt nén hương thơm, chí tâm bái thỉnh :
Trời cao vòi vọi, đất rộng thênh thang,
Từ bé rồi đến lúc lớn khôn,
Công của cha bằng trời cao biển rộng ;
Nằm chỗ ướt nhường con chỗ ráo,
Ðức của mẹ như núi cả sông dài.
Lòng chỉ lo báo đáp nghĩa sinh thành :
Ý những đáp sớm hôm thường định tỉnh.
Tuy âm dương xa cách khôn lường,
Nhưng Phật pháp gia trì tất ứng.
Xin nguyện Phụ (Mẫu) thân chân linh :
Trượng phép mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ chân ngôn bí mật tối linh,
Về đây thụ hưởng đan thành,
Nén hương bát nước cơm canh cúng dàng.
- Lại đốt hương thơm, hai phen triệu thỉnh:
Nhớ ơn đức cha mẹ sinh dưỡng,
Khác nào như bể rộng sông sâu.
Nền Nhân, cội Phúc là đâu ?
Phận con cái phải nghĩ câu báo đền.
- Nay thời tiết nhân duyên vừa đến,
Trước linh sàng thân quyến tề quy,
Tụng kinh niệm Phật gia trì,
Nghe câu triệu thỉnh hồn về thụ trai.
Xin nguyện Phụ (Mẫu) thân chân linh :
Trượng phép mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ chân ngôn bí mật tối linh,
Về đây thụ hưởng đan thành,
Nén hương bát nước cơm canh cúng dàng.
Nam mô An Bảo Tọa Bồ Tát Ma Ha Tát.*

150 - VĂN CÚNG VỢ CHỒNG


Ðốt nén hương thơm,
Nhất tâm triệu thỉnh :
Tình như Loan Phụng,
Nghĩa tựa sắt cầm.
Bao tháng năm khăng khít keo sơn,
Nay bỗng chốc phân chia đôi ngả,
Ðau xót nhé ! Kẻ đi người ở.
Buồn thương thay ! Ðấy khuất đây còn,
Báo đáp nhau chút nghĩa sắt son
Cầu Phật độ cho hồn sang Tịnh cảnh.
Xin nguyện Lương quân (Hiền thê) chân linh :
Trượng phép mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ chân ngôn bí mật tối linh,
Về đây thụ hưởng đan thành,
Nén hương bát nước cơm canh cúng dàng.
- Lại đốt hương thơm hai phen triệu thỉnh:
Chim Loan Phụng từ xưa hòa hợp,
Ðàn sắt cầm bỗng dứt dây tơ,
Âm dương đôi ngã cách xa,
Bóng kia hình nọ bây giờ tìm đâu ?
Lòng thành kính ai cầu chư Phật,
Phóng Từ quang cứu vớt chân linh
Về nơi An dưỡng Vô sinh,
Dự ngôi bất thoái vô minh sạch lầu.
- Xin nguyện Lương quân (Hiền thê) chân linh :
Trượng phép mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ chân ngôn bí mật tối linh,
Về đây thụ hưởng đan thành,
Nén hương bát nước cơm canh cúng dàng.
Nam mô An Bảo Tọa Bồ Tát Ma Ha Tát.*

151 - VĂN CÚNG CON CHÁU


Ðốt nén hương thơm,
Lòng thương triệu thỉnh :
Ân thâm nghĩa trọng,
Con nỡ sao rứt bỏ cho đành ?
Gan héo ruột rầu,
Cha mẹ muốn quên đi chẳng được.
Hẳn duyên nghiệp không từ kiếp trước,
Nên giờ đây con cướp công lao,
Ðể mẹ cha sống cảnh quạnh hiu.
Nhìn ngó lại con đã theo tuyền lộ.
Nay triệu thỉnh hồn nhờ Phật độ,
Về đây cùng thụ hưởng chút dư ân,
Thôi không duyên, không nợ cũng thâm tình,
Con phù hộ cho gia đình an lạc.
- Cầu nguyện cho chân linh con
Trượng phép mầu tựa nương chư Phật
Nhờ chân ngôn bí mật tối linh,
Về đây thụ hưởng đan thành,
Nén hương, bát nước, cơm canh khuyên mời.
- Lại đốt hương thơm, hai phen triệu thỉnh:
Mối tình Phụ (Mẫu) tử, chút nghĩa cái con,
Nuôi bao năm mong được lớn khôn,
Nay bỗng chốc lá xanh sớm rụng,
Ðau xót nhẽ ! Thần hôn cô quạnh,
Ngậm ngùi thay ! Ngày tháng đìu hiu,
Nghĩ đến con thương nhớ trăm chiều,
Cầu Phật độ cho hồn siêu cõi Tịnh.
Cúi nguyện cho chân linh con :
Trượng phép mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ chân ngôn bí mật tối linh,
Về đây thụ hưởng đan thành,
Nén hương, bát nước, cơm canh khuyên mời.
Nam mô An Bảo Tọa Bồ Tát Ma Ha Tát.*

152 - SÁM GIÁC LINH TỐNG TÁNG


Ðời người như một giấc mơ,
Trăm năm nào khác cuộc cờ đổi thay.
Tuần hườn máy tạo chuyển xoay,
Chết đi, sống ở xưa nay lẽ thường.
Hương, đăng, hoa, quả cúng dường,
Nguyện cầu Tam Bảo mười phương chứng lòng.
Hôm nay ta hãy đồng thời,
Ðưa người nhẹ bước về nơi Phật đường.
Cũng vì bác ái lòng thương,
Cầu cho người được về nương Bồ đề.
Xa lìa biển khổ tối mê,
Tam đồ, lục đạo, mà về Tây phương.
Dứt lìa sanh tử vấn vương,
Ở nơi Phật quốc an khương đời đời.
Vậy nên đây có đôi lời,
Nhắc người bóng cũ nay thời biệt ly.
Cảnh đời lắm nỗi sầu bi,
Tình ân phụ mẫu nay thời cách xa.
Cảnh đời như bóng phù hoa,
Tình thâm huynh đệ phải xa hội này.
Cảnh đời nào khác chòm mây,
Tình chồng nghĩa vợ hôm nay xa lìa.
Cảnh đời như bọt nước kia,
Tình thương cho mấy cũng lìa với nhau.
Cảnh đời như gió thổi mau,
Tình thương con cháu thế sao cũng lìa.
Cảnh đời như bể dâu kia,
Tình bằng cố hữu cũng chia đôi đường,
Cảnh đời như thể sa sương,
Tình thâm quyến thuộc cũng thường cách nhau.
Cảnh đời như đá mài dao,
Cả hai mòn hết có nào bền lâu ?
Cảnh đời như lửa đốt dầu,
Cháy mau thì hết có đâu còn hoài.
Cảnh đời nghĩ luống bi ai,
Khác nào hoa nở rồi mai hoa tàn !
Cảnh đời khó nỗi thở than,
Khác nào một đám rừng hoang mịt mù.
Cảnh đời vì bởi chẳng tu,
Nên đường sanh tử lu bu không lìa.
Cảnh đời vì bởi trau tria,
Ðeo theo vật chất khó lìa lợi danh.
Cảnh đời như biển nước xanh,
Gió cuồng, sóng cuộn mé gành lao xao.
Cảnh đời như giấc chiêm bao,
Như lằn điển chớp, khác nào tiếng vang.
Cảnh đời như đống tro tàn,
Giống như Dã Tràng xe cát biển Ðông.
Cảnh đời như thể mật ong,
Thoa vào lưỡi kiếm gạt lòng trẻ em.
Cảnh đời nhìn kỹ mà xem,
Khi về âm cảnh nào đem món gì ?
Cảnh đời là khối hiệp ly !
Nay dời, mai đổi theo thì thời gian.
Hồi nào ở chốn đền vàng,
Bây giờ gởi xác đồng hoang một mình,
Hồi nào mắt đẹp, mày xinh,
Bây giờ một đống thịt sình mà thôi !
Hồi nào đứng đứng, ngồi ngồi,
Bây giờ yên lặng như chồi cây khô,
Hồi nào trang điểm khôi ngô,
Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài !
Hồi nào tình bạn bắt tay,
Bây giờ cắt đứt làm hai con đường.
Hồi nào mền, nệm, gối, giường,
Bây giờ dứt bỏ thảm thương vô cùng.
Hồi nào xưng bá, xưng hùng,
Bây giờ nhắm mắt mà chun xuống mồ.
Hồi nào lên xuống, ra vô,
Bây giờ yên lặng như đồ bất tri.
Hồi nào ứng cử khoa thi,
Bây giờ sao dứt mà đi cho đành.
Hồi nào tham lợi, tham danh,
Bây giờ một đám cỏ xanh nắm mồ.
Hồi nào du lịch giang hồ,
Bây giờ ở chốn đồng khô băng ngàn.
Hồi nào trau ngọc chuốt vàng,
Bây giờ một đống xương tàn rũ da.
Hồi nào múa, hát, đờn, ca,
Bây giờ lìa bỏ tách xa xóm làng.
Hồi nào kiệu phụng, lầu vàng,
Hồi nào mặt biển sóng tràn nhấp nhô,
Hồi nào anh, chị, chú, cô,
Bây giờ chẳng thấy ra vô bóng hình.
Hồi nào con, vợ của mình,
Bây giờ hai ngã thình lình cách xa.
Hồi nào mẹ mẹ, cha cha,
Bây giờ bóng đã khuất qua xế rồi,
Hồi nào tớ, chủ, quân, tôi,
Bây giờ như giọt nước trôi giữa dòng.
Hồi nào bác, thím, em, chồng,
Bây giờ cách biệt hết mong được gần.
Hồi nào yểm cựu nghinh tân,
Bây giờ chỉ thấy mộ phần thiết tha.
Cảnh đời bách chiết, thiên ma,
Huỳnh tuyền choán lộ phải qua một lần.
Ở trong cảnh thế dương trần,
Dầu cho vua, chúa, quan, dân, sang, hèn.
Hạng nào cũng thể bóng đèn,
Hết tim thì tắt một phen mịt mù.
Dầu cho kẻ trí, người ngu,
Kẻ khôn, người dại hình thù nhỏ to.
Rốt rồi cũng táng một gò,
Của trần để lại chẳng cho đem về !
Có gì tríu mến, tham mê,
Ðeo theo vật chất nghiệp nghề làm chi ?
Thế rồi cũng bỏ mà đi,
Nghĩ ra lắm nỗi sầu bi dập dồn.
Tiếng kêu ơi hỡi linh hồn !
Cảnh đời nay biển, mai cồn tỉnh chưa ?
Tỉnh rồi dứt mối say sưa,
Thì là có Phật rước đưa qua liền.
Do hồi đời sống sanh tiền,
Gieo nhiều miếng ruộng phước điền khắp nơi !
Bây giờ an hưởng vui chơi,
Cũng như trong lúc đương đời có tu.
Cho nên mới được võng dù,
Không còn trăng trói ngục tù trần lao.
Dứt lìa sanh tử đớn đau,
Ở nơi Phật quốc ra vào thảnh thơi.
Chẳng còn nghĩ đến việc đời,
Cõi trần giả tạm vốn thời đổi thay.
Nếu như muốn vậy hôm nay,
Phải lo tu trước ngày mai là nhờ.
Biết rằng phải ngộ thiền cơ,
Mau mau nhẹ gót qua bờ sông mê.
Khi nào bỏ thế về quê,
Thì là có Phật dựa kề một bên.
Rước đem về đến cõi trên,
Hưởng điều khoái lạc vững bền dài lâu.
Ðôi lời kính chúc mong cầu,
Nhờ ơn chư Phật rước thâu hồn về.
Khỏi vòng biển khổ, sông mê,
Tam đồ, lục đạo; dựa kề hoa sen.
Nhìn xem thấy rõ bóng đèn,
Quang minh rạng chói một phen sáng lòa.
Nguyện cầu với đức Di Ðà,
Từ bi tế độ những là chúng sanh.
Dầu loài vô giác, hữu tình,
Thảy đều được phước về sinh nước Ngài.
THÍCH CA PHẬT TỔ NHƯ LAI,
QUAN ÂM, THẾ CHÍ cùng Ngài TẠNG VƯƠNG.
Từ bi mở tấm lòng thương,
Nước mưa cam lộ mười phương rưới vào.
Chúng sanh tất cả trần lao,
Nương theo quả giác về mau Niết bàn.*

153 - SÁM CẦU SIÊU


Cuộc nhân thế như tràng ảo mộng,
Chuỗi thời gian tựa bóng bạch câu.
Ðời người gẫm có bao lâu,
Tử vong là một nhịp cầu phải qua.
Cơn tử biệt châu sa lệ đổ,
Cảnh chia phôi thảm khổ sầu bi ;
Não nề kẻ ở người đi,
Khóc than nghẹn tiếng, biệt ly nát lòng.
Những tiếc rẻ tấm công cha mẹ,
Nợ cưu mang bồng bế dưỡng nuôi;
Vật trong vũ trụ đắp bồi,
Hôm nay một phút thôi rồi bỏ đi.
Một thể sống đã ly cõi sống,
Ðem hình hài tăm bóng về đâu ?
Mênh mông trời đất nhiệm mầu,
Huyền vi máy tạo cơ cầu ai hay !
Trong Phật Pháp giãi bày tỏ rõ,
Người thế gian nếu có tâm lành,
Việc làm trong thuở bình sanh,
Giúp người cứu vật để dành phước to.
Ngày nhắm mắt khỏi lo chi nữa,
Khối âm công tích chứa từ xưa,
Nẻo về đã có người đưa,
Cõi riêng đã có phước thừa an vui.
Bằng có kẻ một đời qua luống,
Chưa kịp gieo miếng ruộng phước lành.
Thì người quyến thuộc chung quanh
Thay người quá vãng làm lành gieo duyên:
Dưới chơn Phật kiền thiềng đảnh lễ,
Nghe câu kinh kính nể chắp tay.
Trai Tăng cung dưỡng các thầy,
Qui y, giữ giới, ăn chay, hành thiền.
Phát tâm rộng thí tiền, thí gạo,
Thương người nghèo cho áo, cho cơm.
Những ngày cúng kiến quảy đơm,
Ðừng bày giết vật oán hờn về sau.
Phải duyên cũng sửa cầu bồi lộ,
Gặp vật thì ủng hộ phóng sanh.
Một nhơn tốt, một quả lành,
Phước này hồi hướng vong linh hưởng nhờ.
Cõi trần thế mơ hồ giả tạm.
Kiếp nhơn loài như đám phù vân,
Hiệp tan, tan hiệp xoay vần.
Mà cơn tan hiệp, là phần thương đau.
Ngao ngán nỗi thảm sầu vô tận,
Thức tỉnh cơn phiền hận vĩnh miên.
Dầu rằng khổ hải vô biên,
Hồi đầu thị ngạn, nghiệp duyên sạch lần.
Âu cũng bởi lòng trần vọng niệm,
Ðể xa rời một điểm chơn như,
Ðường trần từ đó ngẩn ngơ,
Càng dong ruỗi bước, càng mờ mịt xa.
Do tâm ý tạo ra nghiệp cảnh,
Cho thân hình chịu lãnh đau thương,
Tỉnh ra một giấc mộng trường,
Liệu bề giải khổ, tìm đường thoát sinh.
Trước bửu tọa nghe kinh sám hối,
Lượng từ bi xả tội lỗi lầm;
Nước dương rửa sạch trần tâm,
Qui y Tam Bảo kỉnh thâm phụng thờ.
Hồn được nhẹ là nhờ phép nhiệm,
“A Di Ðà “, rán niệm Phật danh.
Phật xưa sẵn có nguyện lành,
Niệm danh mười tiếng được sanh nước Ngài.
Niệm chuyên chú đừng sai chỗ diệu,
Chớ luyến trần mê tríu tiếc thương.
Luyến trần ngăn lấp con đường,
Thoát trần thức tỉnh tỏ tường lối đi.
Mê tríu dứt, tức thì nhẹ bước,
Giác ngộ xong Phật rước theo Ngài,
A Di Ðà Phật Như Lai,
Hiện thân tọa bửu liên đài độ sanh.*

154 - SÁM VĂN LÂM CHUNG


Ðầu ngưỡng vọng Tây phương Phật Tổ,
A Di Ðà Phật độ trần gian.
Từ bi cứu kẻ lâm nàn,
Trong giờ bịnh ngặt, linh quang từ trần.
Nhờ đức cả Quan Âm tế độ,
Văn Thù đồng ủng hộ Giác linh.
Phổ Hiền, Ðịa Tạng Thánh minh,
Hộ người khỏi bị vật mình trở trăn.
Mong Phật Tổ bủa giăng ân đức,
Trợ vong hồn thêm sức thiêng liêng.
Kim thân Phật hiện nhãn tiền,
Phóng hào quang giải nghiệp duyên não phiền.
Trấn hồn phách, độ yên tâm cảnh,
Diệt ác tà, pháp tánh qui chơn.
Lục căn, lục thức, lục trần,
Thảy đều thanh tịnh, Chơn thần định an.
Kìa trước mắt đài vàng cửa Phật,
Rước những người chơn chất thiện lương.
Tĩnh lòng quán cõi Tây phương.
A Di Ðà Phật niệm thường chớ sai.
Ðừng vọng tưởng trần ai ân ái,
Bỏ lợi danh khổ hải luân hồi,
Giữ lòng định tĩnh mà thôi,
Một niềm tưởng Phật, vãng hồi Tịnh bang.
Cầu Di Lặc, Nhiên Ðăng Cổ Phật,
Thích Ca đồng gom phách hồn thâu.
An trong một giấc tịnh mầu,
Xuất ra nơi đỉnh huyền châu nê hoàn.
Noi đại đạo minh quang Chánh Giác,
Thoát khỏi vòng sóng thác trầm luân.
Hồn linh theo dõi Phước Thần,
Nương nơi phước báu siêu thăng kịp giờ.*

155 - SÁM NGUYỆN CẦU SIÊU


Quy mạng lễ mười phương Tam bảo,
Khắp ba đời chánh đạo Bồ đề.
Nay con thành kính hướng về,
Chí tâm sám nguyện tư vì hương linh.
Chúng con bởi vô minh bất giác,
Nên tử sanh trôi dạt luân hồi.
Ðể cho nghiệp lực cuốn lôi,
Ðẩy đưa ràng buộc từ đời xưa xa.
Nhờ chút niệm nên đà sanh được,
Làm thân người trong kiếp sống này.
Trải qua những tháng năm dài,
Chung quy rồi cũng đến ngày tử vong.
Tất cả những điều trong cuộc thế,
Ðã sống theo những lẽ phàm tình.
Chỉ vì nghĩ đến thân mình,
Mà gây tạo tác muôn nghìn oán ân.
Ðem trọn cả cái THÂN, MIỆNG, Ý,
Quay cuồng nơi tục lụy hồng trần.
Bởi con chẳng rõ VỌNG CHÂN,
Lại không tri kiến định phân chánh tà.
Lầm chấp vào “CÁI TA” hư ngụy,
Lấy “VỌNG TÂM PHÀM Ý” làm mình.
Cho nên tư tưởng tánh tình,
Dẫy đầy tà ác VÔ MINH mê lầm.
Những cái gì thuận lòng hợp dạ,
Thì thích, THAM MUỐN cả không ngơi.
Còn khi bị nghịch ý rồi,
Căm tức, SÂN HẬN tạo thời ác duyên.
Tánh tình trở thành PHIỀN NÃO chướng,
Làm cội nguồn ý tưởng nảy sanh,
Chẳng rõ xấu ác, tốt lành,
Chỉ biết phải trái theo mình nghĩ thôi.
Bị danh lợi, tình đời thúc đẩy,
Tạo gây nên đầy dẫy ác nhân,
Nào là những nghiệp nơi THÂN :
Sát sanh trộm cướp, tà dâm, rượu chè.
Cùng bao thứ đam mê đọa lạc,
Khiến thành người bạo ác, xấu xa,
Nào từ LỜI NÓI thốt ra :
Những điều dối trá, điêu ngoa, ngang tàng.
Hoặc đâm thọc, khoe khoang, khêu gợi,
Khinh khi và chửi bới hỗn hào,
Càng ngày tội lỗi càng cao,
Thế mà con vẫn có nào biết đâu.
Ðã vậy tánh hiểm sâu xảo quyệt,
Khiến cho con chỉ biết lợi mình,
Mặc cho tổn hại chúng sinh,
Miễn sao thỏa ý thích tình thì thôi.
Bởi thế nên một đời tạo nghiệp,
Ðành trải thân nhiều kiếp khổ mê,
Bao nhiêu tội chướng nặng nề,
Bao nhiều phiền não, sở tri chất chồng.
Ðều tích lũy vào trong TẠNG THỨC,
Kết tạo thành nghiệp lực buộc ràng,
Tùy theo nhân tố đã làm,
Ðẩy đưa dắt dẫn đôi đàng đọa thăng.
Theo cái sự vận hành nhân quả,
Tà ác thì sa đọa đắm chìm,
Ðịa ngục, ngạ quỉ, súc sanh,
Khổ đau, đói khát, ngục hình tối tăm.
Trải bao kiếp khó mong thoát khỏi,
Bởi đấy là cảnh giới đọa đầy,
Ðể đền trả nghiệp đã gây,
Cho nên rất đỗi lâu dài khổ nguy.
Hoặc lúc sống thường thì làm thiện,
Tạo phúc lành tinh tiến huân tu,
Thể hiện đức hạnh nhân từ,
Hóa sanh thiên giới thường cư lâu dài.
Hay sẽ được tái lai trần cảnh,
Tùy nhân xưa thọ lành phúc phần,
Hay sanh cảnh giới quỷ thần,
Ðều do nghiệp lực chuyển vần đẩy đưa.
Chúng con từ xa xưa vô thủy,
Quanh quẩn trong tục lụy luân hồi,
Sáu đường, ba cõi nổi trôi
Bởi chưa giác ngộ để hồi lại tâm.
Nay nhờ lượng hồng ân Tam Bảo,
Mà được nương theo đạo Bồ đề,
Khiến con giải bớt khổ mê,
Khiến con thức tỉnh hướng về nẻo chân.
Xin thành khẩn ân cần sám hối,
Những mê lầm, tội lỗi ác tà,
Kể từ những kiếp xưa xa,
Cho đến hiện tại cùng là hậu lai.
Những nghiệp chướng tự tay gây tạo,
Hoặc cố tình xúi bảo người làm,
Hoặc do vô ý vương mang,
Hoặc cùng kẻ khác tính toan thực hành.
Nay nương vào nguyện lành chư Phật,
Và quang minh pháp lực oai thần,
Khiến cho nghiệp chướng giảm lần,
Khiến cho phước huệ được phần phát sanh.
Ðể tâm thức thiện lành trong sáng,
Mà tỏ ngộ được ánh đạo mầu,
Bao nhiêu phiền não nặng sâu,
Bao nhiêu oan trái cũng mau giải trừ.
Nhờ Pháp Bảo Dược Sư Quán Ðảnh,
Và bổn nguyện siêu thắng vô lường,
Của đấng Vô thượng Y vương,
Cũng là oai đức mười phương độ trì.
Nguyện Tam Bảo thường thì gia hộ,
Ðến chúng sanh mê khổ trầm luân,
Thảy đều thọ lãnh hồng ân,
Thảy đều giải thoát khỏi dòng sông mê.
Lại thành kính nguyện về tất cả,
Chư Bồ Tát hỷ xả, từ bi,
Dùng mọi phương tiện huyền vi,
Ứng hóa gia hộ độ trì chúng sanh.
Ðồng được ánh quang lành nhuần thấm,
Giải tan dần mê vọng vô minh,
Khiến cho trí sáng phát sinh,
Khiến cho nghiệp chướng tội tình nhẹ vơi.
Việc xấu ác đồng thời xa lánh,
Ðiều tốt lành cố gắng huân tu,
Giữ tâm trong sạch hòa nhu,
Nương theo Chánh pháp công phu hành trì.
Thể hiện lòng đại bi đại xả,
Hằng rộng làm tất cả việc lành,
Nguyện cho lục đạo chúng sanh,
Thảy đều giác ngộ phát tâm Bồ đề.
Ðạo giải thoát thẳng về tới chốn,
Không ai còn lăn lộn tử sanh,
Vô thượng Chánh giác chóng thành,
Nguyện xin chư Phật mười phương gia trì.
Nay chúng con đã vì vong giả,
Mà sám nguyện với cả lòng thành,
Ðược bao phước lực phát sinh,
Xin hồi hướng đến hương linh đủ đầy.
Và nhờ Pháp bảo này hộ niệm,
Nguyện mười phương ứng hiện oai thần,
Phóng quang tiếp dẫn hương linh,
Nương công đức lực siêu sinh cõi lành.*



Chú thích


* Trích “Luật Nghi Khất Sĩ ”, Thành Hội Phật Giáo TP. HCM. xuất bản, 1993
* Trích “Khoa Chú Thực”, Bản Bắc in lụa, phần chữ Việt, Hải Phòng, 1996.
* Trích “Nghi Thức Tụng Niệm Hằng Ngày”,HT Thích Thiện Thanh, Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM xuất bản, 1994
* Trích “Nghi Thức Tụng Niệm Hằng Ngày”,HT Thích Thiện Thanh, Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM. xuất bản, 1994
* Trích “Nghi Thức Tụng Niệm”, Hệ phái Khất Sĩ, Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM xuất bản, 1996
* Trích “Khoa Chú Thực”, Bản Bắc in lụa, phần chữ Việt , Hải Phòng, 1990
* Trích “Khoa Chú Thực”, Bản Bắc in lụa , phần chữ Việt ,Hải Phòng ,1990
* Trích “Khoa Chú Thực”, Bản Bắc in lụa , phần chữ Việt ,Hải Phòng ,1990
* Trích “Khoa Chú thực”, Bản Bắc in lụa , phần chữ Việt , Hải Phòng , 1990
* Trích “Nghi Thức Tụng Niệm ”, Hệ phái Khất Sĩ ,Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM. xuất bản , 1996
* Trích “Kinh Tam Bảo” , Ni Trưởng Huỳnh Liên ,
Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM. xuất bản , 1992
* Trích “Thiền Môn Nhựt Tụng” , HT Minh Tr?c ,Tổ đình Phật Bửu ấn hành ,Sài Gòn ,1992
* Trích “Nghi Thức Tụng Niệm Dược Sư Pháp Bảo” , Thích Thanh Ngọc ,chùa Khuông Việt ấn hành , 1990.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5083)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4102)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4693)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4154)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3600)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6881)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5052)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]