Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần thứ I: Các bài sám văn âm chữ Hán

10/05/201317:34(Xem: 15482)
Phần thứ I: Các bài sám văn âm chữ Hán

Tuyển tập các bài sám văn - Tập III: 55 Bài sám văn âm nghĩa sưu tập

Phần thứ I: Các bài sám văn âm chữ Hán

Thích Đồng Bổn sưu tập

Nguồn: Thích Đồng Bổn sưu tập

Lời Nói Ðầu


Qua hai tập I và II, đã có 110 bài sám văn được giới thiệu đến quí độc giả gần xa, và trên đường nghiên cứu sưu tầm, chúng tôi lần lượt phát hiện thêm nữa các dị bản, các bài sám văn mới đã và đang được sử dụng trong thời khóa các chùa, trong các nghi lễ dân gian, hoặc bằng truyền khẩu khắp cả ba miền đất nước... Ðó là động cơ thôi thúc chúng tôi tiếp tục sưu tầm để biên tập nên quyển thứ III “ 55 bài sám văn âm nghĩa sưu tập”.
Công trình sưu tập toàn bộ các bài sám hay, các áng văn vần, đã đi hơn nửa phần đường, chúng tôi vẫn tiếp tục cho đến khi nào không còn tìm được nữa mới thôi, để cho các bài sám văn không bị quên lãng theo thời gian, dẫu rằng có còn được sử dụng nữa hay không. Vì ở đó, là dấu tích của sự tu trì, là sinh hoạt nghi lễ Phật Giáo ở một địa phương, và là sự thể hiện trăm sắc ở vườn hoa văn học đạo pháp tuy rằng khác biệt các chốn Tổ, sơn môn, hệ phái, giáo phái, Tăng tục... nhưng vẫn đồng là con một nhà, là tài sản chung của kho tàng văn hóa Phật giáo Việt Nam.
Ở tập III này, phần sưu tầm có đi rộng ra ở các hệ phái, các sơn môn để phát hiện thêm các dị bản từ các bài sám văn gốc. Tuy rằng ý nghĩa là một, nhưng ở mỗi bản dịch khác nhau cũng nói lên phong cách sáng tạo văn vần của mỗi dịch giả ở mỗi nơi có cái đặc thù riêng, phù hợp việc sử dụng ở một bối cảnh nhất định. Qua biên tập góp nhặt ở quyển này, có thể giới thiệu một tập hợp rộng rãi, nếu quí Tôn đức độc giả thấy những bài có vần điệu phù hợp đem sử dụng rộng rãi như một cách giao lưu, thể hiện tâm hồn rộng mở và đoàn kết của người con Phật, thì quả là công đức vô lượng và là một khích lệ lớn lao cho người sưu tầm vậy.
Trong việc biên tập, chúng tôi cố tình không đưa hết các bài Sám văn của một tác giả - sơn môn nào hết, mà có sự phân bố đồng đều mỗi nơi một ít, để thấy được giá trị chung của tập thể là phục vụ mục đích chung nhất có hệ thống cho kho tàng văn học Phật giáo. Những bài còn lại sẽ được lần lượt giới thiệu vào quyển IV, và rất mong sự đóng góp phát hiện của các bậc thức giả xa gần hỗ trợ.
Có một số bài kinh dịch ra văn vần được tập hợp trong quyển này, tuy không mang tính chất một bài Sám văn, nhưng sự tụng đọc ở những thời điểm kỷ niệm vía chư Phật Bồ Tát như: Kinh Tám Ðiều cho Lễ vía Phật Ðản và tụng đọc hàng ngày, hoặc 48 Lời Nguyện Ðức Di Ðà cho vía Phật Di Ðà, hoặc Kinh Vô Thường cho các lễ Tống táng... đã mang ý nghĩa của một bài sám văn hầu răn nhắc chúng ta cảnh tỉnh tự thân trong cuộc sống. Chính vì thế mà chúng tôi đã đưa vào tuyển tập như một bài Sám văn, để bình thường hóa hơn công dụng của những kinh trên đi vào cuộc sống và tâm thức mọi người. Vì rằng thể loại sám văn được tụng đọc nhiều hơn, thuộc lòng nhiều hơn, sử dụng giản đơn hơn, còn kinh điển thì phải được tụng đọc trang nghiêm, có nghi thức khai kinh, mõ chuông ở trước Phật tiền.
Vẫn như quyển trước, tập III này có thêm phần các bài Sám văn âm chữ Hán mà chúng tôi mới sưu tầm thêm. Và vẫn tiếp tục việc đánh số theo thứ tự nối tiếp hai tập trước để dễ dàng nhận biết tìm kiếm, vì rằng tên tựa các bài sám văn thì hầu như đều giống nhau. Tập III này được bắt đầu từ bài thứ 111 đến bài 165. Ngoài ra, có đôi bài cần thiết tụng đọc nhưng chưa phải là một bài sám văn, chỉ là một bài kệ thường dùng, thì chúng tôi vẫn sưu tập vào đây để làm tư liệu cho quý độc giả, làm phần phụ lục thêm thôi.
Cuối cùng, vẫn chưa phải là hết cho công trình sưu tập các bài sám văn này, rất mong mỏi quý liệt vị Tôn Ðức Tăng Ni, Phật tử độc giả xa gần đóng góp bổ sung và cho ý kiến những chỗ sai sót, để chúng tôi kịp thời đính chính ở lần tái bản, cũng như được thêm tư liệu hoàn thành cho tập sau, ngõ hầu đầy đủ hơn, hoàn chỉnh hơn, không để các áng văn vần hay của chúng ta còn bị rơi rớt mai một đâu đó...
Và sau nữa, xin chân thành tri ân cùng cảm niệm công đức chư Tôn Túc Hòa thượng, Thượng tọa, Ðại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử đã giúp đỡ cung cấp tư liệu để cho tuyển tập này được hoàn thành và ra mặt độc giả một cách trọn vẹn.

Trọng xuân năm Ðinh Sửu 1997
Người góp nhặt
THÍCH ÐỒNG BỔN


111 - VĂN PHÁT NGUYỆN HƯỚNG TAM BẢO


Ngã sinh bất thiện chư phiền não,
Nguyện vĩnh tiêu trừ tội chướng nhân,
Vị ngộ mê tà thập ác triền,
Nguyện bất giữ tâm tương tục khởi,
Dục giới, sắc giới, vô sắc giới,
Tảo đoạn triền miên hữu lậu nhân,
Nhiễm nhân nhiễm quả nhiễm trần duyên,
Nguyện hướng sinh sinh bất tương tục,
Thuận hiện thuận tiền thuận hậu nghiệp,
Tam thế oan vưu vĩnh diệt trừ,
Phá trai phá giới phá uy nghi,
Nhất thiết chí tâm giai sám hối,
Nghiệp chướng báo chướng phiền não chướng;
Quán thân thực tướng tính câu không,
Kính Phật, kính Pháp, kính chân Tăng,
Thanh tịnh pháp thân tảo huân hiển.*

112 - SÁM HỐI VĂN


Chí tâm sám hối.
Ngã đệ tử (chúng đẳng) ...
Cập pháp giới chúng sinh,
Tòng vô thủy thế lai,
Vô minh sở phú,
Ðiên đảo mê hoặc,
Nhi do lục căn tam nghiệp,
Tập bất thiện pháp,
Quảng tạo thập ác,
Cập ngũ vô gián,
Nhất thiết chúng tội,
Vô lượng vô biên
Thuyết bất khả tận.
Thập phương chư Phật,
Thường tại thế gian,
Pháp âm bất tuyệt,
Diệu hương sung tắc,
Pháp vị doanh không,
Phóng tịnh quang minh,
Chiếu xúc nhất thiết,
Thường trụ diệu lý,
Biến mãn hư không,
Ngã vô thủy lai,
Lục căn nội manh,
Tam nghiệp hôn ám,
Bất kiến bất văn,
Bất giác bất tri,
Dĩ thị nhân duyên,
Trường lưu sinh tử,
Kinh lịch ác đạo,
Bách thiên vạn kiếp,
Vĩnh vô xuất kỳ,
Kinh vân Tỳ Lư Giá Na,
Biến nhất thiết xứ,
Kỳ Phật sở trụ,
Danh Thường Tịch Quang,
Thị cố đương tri,
Nhất thiết chư pháp,
Vô phi Phật pháp,
Nhi ngã bất liễu,
Tùy vô minh lưu,
Thị tắc ư bồ đề trung,
Kiến bất thanh tịnh,
Ư giải thoát trung,
Nhi khởi triền phược,
Kim thủy giác ngộ,
Kim thủy cải hối,
Phụng đối chư Phật,
Di Ðà Thế Tôn,
Phát lộ sám hối.
Ðương linh ngã dữ,
Pháp giới chúng sinh,
Tam nghiệp lục căn,
Vô thủy sở tác,
Hiện tác đương tác,
Tự tác giáo tha,
Kiến văn tùy hỉ,
Nhược ức bất ức,
Nhược thức bất thức,
Nhược nghi bất nghi,
Nhược phú nhược lộ,
Nhất thiết trọng tội,
Tất kính thanh tịnh.
Ngã sám hối dĩ,
Lục căn tam nghiệp,
Tịnh vô hà lụy,
Sở tu thiện căn,
Tất diệc thanh tịnh,
Giai tất hồi hướng,
Trang nghiêm Tịnh độ,
Phổ dữ chúng sinh,
Ðồng sinh An dưỡng.
Nguyện A Di Ðà Phật,
Thường lai hộ trì,
Linh ngã thiện căn,
Hiện tiền tăng tiến,
Bất thất tịnh nhân,
Lâm mệnh chung thời,
Thân tâm chính niệm,
Thị thính phân minh,
Diện phụng Di Ðà,
Dữ chư Thánh chúng,
Thủ chấp hoa đài,
Tiếp dẫn ư ngã,
Nhất sát na khoảnh,
Sinh tại Phật tiền,
Cụ Bồ tát đạo,
Quảng độ chúng sinh,
Ðồng thành chủng trí.*

113 - SÁM HỐI PHÁT NGUYỆN TÙY HỈ VĂN


Quy mạng thập phương đẳng chính giác,
Tối thắng diệu pháp, Bồ tát chúng,
Dĩ thân khẩu ý thanh tịnh nghiệp,
Ân cần hợp chưởng cung kính lễ.
Vô thủy luân hồi chư hữu trung,
Thân khẩu ý nghiệp sở sinh tội,
Như Phật Bồ tát sở sám hối,
Ngã kim trần sám diệc như thị.
Chư Phật Bồ Tát hành nguyện trung,
Kim cương tam nghiệp sở sinh phúc,
Duyên giác, Thinh văn cập hữu tình,
Sở cập thiện căn tận tùy hỷ.
Nhất thiết thế đăng tọa đạo tràng,
Giác nhãn khai phu chiếu tam hữu,
Ngã kim hồ quị tiên khuyến thỉnh,
Chuyển ư vô lượng diệu pháp luân.
Sở hữu Như Lai tam giới chủ,
Lâm bàn Vô dư Niết bàn giả,
Ngã giai khuyến thỉnh, linh cửu trụ,
Bất xả bi nguyện cứu thế gian.
Sám hối khuyến thỉnh, tùy hỷ phúc,
Nguyện ngã bất thất Bồ đề tâm,
Chư Phật Bồ Tát diệu chúng trung ,
Thường vi bạn lữ bất yếm xả.
Ly ư bát nạn sinh vô nạn,
Túc mệnh trụ trí tướng nghiêm thân,
Viễn ly ngu si cụ bi trí,
Tất năng mãn túc Ba la mật.
Phú lạc phong nhiêu sinh thắng lộc,
Quyến thuộc quảng đa thường xí thạnh,
Tứ vô ngại biện, thập tự tại,
Lục thông chư thiền tất viên mãn.
Như Kim Cương Tràng cập Phổ Hiền,
Nguyện giải hồi hướng diệc như thị.
- Trích « Ðại Bi Nghi Quỹ », TT. Thích Viên Thành biên soạn, Sài Sơn Pháp Bảo ấn hành, Hà Tây, 1993

114 - SÁM VĂN NGŨ BÁCH DANH


Nhất tự thân cư phù thế thượng,
Ða ban tác tội hướng phần lung,
Tứ đại chỉ tương tài sắc khiên,
Nhất sinh trường bả tửu nhục đam,
Dưỡng nữ chủng nam thương vật mệnh,
Dục tàm chử kiển sát sinh đầu,
Nghinh tân uấn nhưỡng tản phao đa,
Tiếp khách phanh bào vô hữu số,
Hoặc phú cự tương thăng đẩu lộng,
Hoặc bần toại tứ thiết đạo tâm,
Bất nhiên hủy Phật bách ban ngôn,
Tận thị báng Tăng đa chủng thuyết,
Phụ trái cô ân đa thiểu khổ,
Gia chư uổng lạm tác oan tăng,
Hoặc mãn thường trụ thủ tư tài,
Hoặc hướng tư tồn xâm hóa vật,
Nghiệp kính đài tiền thân hiển hiện,
Khôi hà lãng lý tự phiêu trầm,
Nhân gian bách tuế dị tiêu ma,
Ðịa ngục phiến thời nan đắc quá,
Thành thượng Thiết vi thiên trượng quảng,
Hoạch thang nhân cốt vạn điều hoành,
Dạ lai sàng thượng ngọa tràng đinh,
Nhật lý đao sơn huyền kiếm thụ,
Văn thuyết ngục trung đa thiểu khổ,
Na kham kinh lịch thụ ba cha,
Thường văn huệ - nhật hữu quang minh,
Thước phá tội khiên tiêu hắc ám,
Dục tương nhân thân vô thất lạc,
Tu bằng Phật lực tác lương duyên,
Miễn giáo lân giáp hoán nhân bì,
Bất sử vũ mao bào cốt nhục,
Vạn cổ thiên tân đầu thánh chúa,
Tái tam trần khẩn cáo Quán Âm,
Tòng tiền sở tác chúng tội khiên,
Nguyện Phật từ bi thông sám hối.*

115 - ÐẠI BI SÁM HỐI VĂN


Ðệ tử chúng đẳng ...
Dữ pháp giới nhất thiết chúng sinh,
Hiện tiền nhất tâm,
Bản cụ thiện pháp,
Giai hữu thần lực,
Cập dĩ trí minh,
Thượng đẳng Phật tâm,
Hạ đồng hàm thức,
Vô thủy ám động,
Chướng thử tĩnh minh,
Xúc sự hôn mê,
Cử tâm phọc trược,
Bình đẳng pháp trung,
Khởi tự tha tưởng,
Ái kiến vi bản,
Thân khẩu vi duyên,
Ư chư hữu trung,
Vô tội bất tạo,
Thập ác ngũ nghịch,
Báng pháp báng nhân,
Phá giới phá trai,
Hủy tháp hoại tự,
Thâu Tăng kỳ vật,
Ô tịnh phạm hạnh,
Xâm tổn thường trụ,
Ẩm thực tài vật,
Thiên Phật xuất thế,
Bất thông sám hối,
Như thị đẳng tội,
Vô lượng vô biên,
Xả tư hình mệnh,
Hợp đọa tam đồ,
Bị anh vạn khổ,
Phục ư hiện thế,
Chúng não giao tiên,
Hoặc ác tật oanh triền,
Tha duyên bức bách
Chướng ư đạo pháp
Bất đắc huân tu,
Kim ngộ Ðại Bi Viên Mãn Thần Chú,
Tốc năng diệt trừ,
Như thị tội chướng,
Cố ư kim nhật,
Chí tâm tụng trì,
Qui hướng Quán Thế Âm Bồ Tát,
Cập Thập phương Ðại sư,
Phát Bồ đề tâm,
Tu chân ngôn hạnh,
Dữ chư chúng sinh,
Phát lộ chúng tội,
Cầu khất sám hối,
Tất kính tiêu trừ.
Duy nguyện Ðại bi
Quán Thế Âm Bồ Tát Ma ha tát,
Thiên thủ hộ trì,
Thiên nhỡn chiếu kiến,
Ninh ngã đẳng :
Nội ngoại chướng duyên tịch diệt,
Tự tha hành nguyện viên thành,
Khai bản kiến tri,
Chế chư ma ngoại,
Tam nghiệp tinh tiến,
Tu Tịnh độ nhân,
Chí xả thử thân,
Cánh vô tha thú,
Quyết định đắc sinh,
A Di Ðà Phật Cực Lạc thế giới,
Thân thừa cúng dàng.
Ðại Bi Quán Âm,
Cụ chư tổng trì,
Quảng độ quần phẩm,
Giai xuất khổ luân,
Ðồng đáo trí địa.*

116 - SÁM VĂN QUAN ÂM TIÊU NGHIỆP CHƯỚNG


Ngã cập chúng sinh
Vô thủy thường vị
Tam nghiệp lục căn
Trọng tội sở chướng,
Bất kiến chư Phật,
Bất tri xuất yếu,
Ðãn thuận sinh tử,
Bất tri diệu lý,
Ngã kim tuy tri,
Bo dữ chúng sinh,
Ðồng vị nhứt thiết,
Trọng tội sở chướng,
Kim đối Quan Âm
Thập phương Phật tiền,
Phổ vị chúng sinh,
Qui mệnh sám hối.
Duy nguyện gia hộ,
Ninh chướng tiêu diệt,
Ngã dữ chúng sinh,
Vô thủy lai kim,
Do ái kiến cố,
Nội kế ngã nhân,
Ngoại gia ác hữu,
Bất tùy hỷ tha,
Nhất hào chi thiện,
Duy biến tam nghiệp,
Quảng tạo chúng tội,
Sự tuy bất quảng,
Ác tâm biến bố,
Trú dạ tương tục,
Vô hữu gián đoạn,
Phú quý quá thất,
Bất dục nhân tri,
Bất úy ác đạo,
Vô tàm vô quí,
Bác vô nhân quả,
Cố ư kim nhật,
Thâm tín nhân quả,
Sinh trọng tàm quí,
Sinh đại bố úy,
Phát lộ sám hối,
Ðoạn tương tục tâm,
Phát Bồ đề tâm,
Ðoạn ác tu thiện,
Cần sách tam nghiệp,
Phiên âm trọng quá,
Tùy hỷ phàm thánh,
Nhất hào chi thiện,
Niệm Thập phương Phật,
Hữu đại phúc tuệ,
Năng cứu bạt ngã,
Cập chư chúng sinh,
Tòng nhị tử hải,
Chí tam Ðức ngạn,
Tòng vô thủy lai,
Bất tri chư pháp,
Cầu tính không tịch,
Quảng tạo chúng ác,
Kim tri không tịch
Vị cầu Bồ đề,
Vị chúng sinh cố,
Quảng tu chư thiện,
Biến đoạn chúng ác,
Duy nguyện Quán Âm,
Từ bi nhiếp thụ.*

117 - VĂN PHỔ SÁM BẠCH


Ngưỡng khải Quán Thế Âm Bồ Tát,
Từ bi chẩn niệm,
Lợi tế minh tâm,
Thị đầu thành khởi kính chi phương,
Xiển cải quá tự tân chi lộ,
Ai căng ngã đẳng,
Phả cập hữu tình,
Kim thế kim sinh,
Cố vi tội cấu,
Túc duyên túc nghiệp,
Tất hữu oan khiên,
Vong thân sám hối chi nghi,
Thượng ký hàm dung chi đức,
Lục thú đãng trừ tư pháp thủy,
Tam đồ phiến khứ lai từ phong,
Tội căn phiên tác phúc căn,
Ác quả hóa vi thiện quả,
Phục vọng Từ Tôn,
Phủ dung sám hối,
Phả vị tứ ân tam hữu,
Pháp giới chúng sinh,
Tất nguyện đoạn trừ chư chướng;
Quy mệnh lễ sám hối.*
* Trích “Chư Kinh Nhật Tụng”,Thích Chân Lý ,Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM. xuất bản, 1996

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5184)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5606)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4465)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5018)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4603)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5303)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4799)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9517)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4889)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4124)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]