Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần thứ I: Các bài sám văn âm chữ Hán

10/05/201317:34(Xem: 15509)
Phần thứ I: Các bài sám văn âm chữ Hán

Tuyển tập các bài sám văn - Tập III: 55 Bài sám văn âm nghĩa sưu tập

Phần thứ I: Các bài sám văn âm chữ Hán

Thích Đồng Bổn sưu tập

Nguồn: Thích Đồng Bổn sưu tập

Lời Nói Ðầu


Qua hai tập I và II, đã có 110 bài sám văn được giới thiệu đến quí độc giả gần xa, và trên đường nghiên cứu sưu tầm, chúng tôi lần lượt phát hiện thêm nữa các dị bản, các bài sám văn mới đã và đang được sử dụng trong thời khóa các chùa, trong các nghi lễ dân gian, hoặc bằng truyền khẩu khắp cả ba miền đất nước... Ðó là động cơ thôi thúc chúng tôi tiếp tục sưu tầm để biên tập nên quyển thứ III “ 55 bài sám văn âm nghĩa sưu tập”.
Công trình sưu tập toàn bộ các bài sám hay, các áng văn vần, đã đi hơn nửa phần đường, chúng tôi vẫn tiếp tục cho đến khi nào không còn tìm được nữa mới thôi, để cho các bài sám văn không bị quên lãng theo thời gian, dẫu rằng có còn được sử dụng nữa hay không. Vì ở đó, là dấu tích của sự tu trì, là sinh hoạt nghi lễ Phật Giáo ở một địa phương, và là sự thể hiện trăm sắc ở vườn hoa văn học đạo pháp tuy rằng khác biệt các chốn Tổ, sơn môn, hệ phái, giáo phái, Tăng tục... nhưng vẫn đồng là con một nhà, là tài sản chung của kho tàng văn hóa Phật giáo Việt Nam.
Ở tập III này, phần sưu tầm có đi rộng ra ở các hệ phái, các sơn môn để phát hiện thêm các dị bản từ các bài sám văn gốc. Tuy rằng ý nghĩa là một, nhưng ở mỗi bản dịch khác nhau cũng nói lên phong cách sáng tạo văn vần của mỗi dịch giả ở mỗi nơi có cái đặc thù riêng, phù hợp việc sử dụng ở một bối cảnh nhất định. Qua biên tập góp nhặt ở quyển này, có thể giới thiệu một tập hợp rộng rãi, nếu quí Tôn đức độc giả thấy những bài có vần điệu phù hợp đem sử dụng rộng rãi như một cách giao lưu, thể hiện tâm hồn rộng mở và đoàn kết của người con Phật, thì quả là công đức vô lượng và là một khích lệ lớn lao cho người sưu tầm vậy.
Trong việc biên tập, chúng tôi cố tình không đưa hết các bài Sám văn của một tác giả - sơn môn nào hết, mà có sự phân bố đồng đều mỗi nơi một ít, để thấy được giá trị chung của tập thể là phục vụ mục đích chung nhất có hệ thống cho kho tàng văn học Phật giáo. Những bài còn lại sẽ được lần lượt giới thiệu vào quyển IV, và rất mong sự đóng góp phát hiện của các bậc thức giả xa gần hỗ trợ.
Có một số bài kinh dịch ra văn vần được tập hợp trong quyển này, tuy không mang tính chất một bài Sám văn, nhưng sự tụng đọc ở những thời điểm kỷ niệm vía chư Phật Bồ Tát như: Kinh Tám Ðiều cho Lễ vía Phật Ðản và tụng đọc hàng ngày, hoặc 48 Lời Nguyện Ðức Di Ðà cho vía Phật Di Ðà, hoặc Kinh Vô Thường cho các lễ Tống táng... đã mang ý nghĩa của một bài sám văn hầu răn nhắc chúng ta cảnh tỉnh tự thân trong cuộc sống. Chính vì thế mà chúng tôi đã đưa vào tuyển tập như một bài Sám văn, để bình thường hóa hơn công dụng của những kinh trên đi vào cuộc sống và tâm thức mọi người. Vì rằng thể loại sám văn được tụng đọc nhiều hơn, thuộc lòng nhiều hơn, sử dụng giản đơn hơn, còn kinh điển thì phải được tụng đọc trang nghiêm, có nghi thức khai kinh, mõ chuông ở trước Phật tiền.
Vẫn như quyển trước, tập III này có thêm phần các bài Sám văn âm chữ Hán mà chúng tôi mới sưu tầm thêm. Và vẫn tiếp tục việc đánh số theo thứ tự nối tiếp hai tập trước để dễ dàng nhận biết tìm kiếm, vì rằng tên tựa các bài sám văn thì hầu như đều giống nhau. Tập III này được bắt đầu từ bài thứ 111 đến bài 165. Ngoài ra, có đôi bài cần thiết tụng đọc nhưng chưa phải là một bài sám văn, chỉ là một bài kệ thường dùng, thì chúng tôi vẫn sưu tập vào đây để làm tư liệu cho quý độc giả, làm phần phụ lục thêm thôi.
Cuối cùng, vẫn chưa phải là hết cho công trình sưu tập các bài sám văn này, rất mong mỏi quý liệt vị Tôn Ðức Tăng Ni, Phật tử độc giả xa gần đóng góp bổ sung và cho ý kiến những chỗ sai sót, để chúng tôi kịp thời đính chính ở lần tái bản, cũng như được thêm tư liệu hoàn thành cho tập sau, ngõ hầu đầy đủ hơn, hoàn chỉnh hơn, không để các áng văn vần hay của chúng ta còn bị rơi rớt mai một đâu đó...
Và sau nữa, xin chân thành tri ân cùng cảm niệm công đức chư Tôn Túc Hòa thượng, Thượng tọa, Ðại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử đã giúp đỡ cung cấp tư liệu để cho tuyển tập này được hoàn thành và ra mặt độc giả một cách trọn vẹn.

Trọng xuân năm Ðinh Sửu 1997
Người góp nhặt
THÍCH ÐỒNG BỔN


111 - VĂN PHÁT NGUYỆN HƯỚNG TAM BẢO


Ngã sinh bất thiện chư phiền não,
Nguyện vĩnh tiêu trừ tội chướng nhân,
Vị ngộ mê tà thập ác triền,
Nguyện bất giữ tâm tương tục khởi,
Dục giới, sắc giới, vô sắc giới,
Tảo đoạn triền miên hữu lậu nhân,
Nhiễm nhân nhiễm quả nhiễm trần duyên,
Nguyện hướng sinh sinh bất tương tục,
Thuận hiện thuận tiền thuận hậu nghiệp,
Tam thế oan vưu vĩnh diệt trừ,
Phá trai phá giới phá uy nghi,
Nhất thiết chí tâm giai sám hối,
Nghiệp chướng báo chướng phiền não chướng;
Quán thân thực tướng tính câu không,
Kính Phật, kính Pháp, kính chân Tăng,
Thanh tịnh pháp thân tảo huân hiển.*

112 - SÁM HỐI VĂN


Chí tâm sám hối.
Ngã đệ tử (chúng đẳng) ...
Cập pháp giới chúng sinh,
Tòng vô thủy thế lai,
Vô minh sở phú,
Ðiên đảo mê hoặc,
Nhi do lục căn tam nghiệp,
Tập bất thiện pháp,
Quảng tạo thập ác,
Cập ngũ vô gián,
Nhất thiết chúng tội,
Vô lượng vô biên
Thuyết bất khả tận.
Thập phương chư Phật,
Thường tại thế gian,
Pháp âm bất tuyệt,
Diệu hương sung tắc,
Pháp vị doanh không,
Phóng tịnh quang minh,
Chiếu xúc nhất thiết,
Thường trụ diệu lý,
Biến mãn hư không,
Ngã vô thủy lai,
Lục căn nội manh,
Tam nghiệp hôn ám,
Bất kiến bất văn,
Bất giác bất tri,
Dĩ thị nhân duyên,
Trường lưu sinh tử,
Kinh lịch ác đạo,
Bách thiên vạn kiếp,
Vĩnh vô xuất kỳ,
Kinh vân Tỳ Lư Giá Na,
Biến nhất thiết xứ,
Kỳ Phật sở trụ,
Danh Thường Tịch Quang,
Thị cố đương tri,
Nhất thiết chư pháp,
Vô phi Phật pháp,
Nhi ngã bất liễu,
Tùy vô minh lưu,
Thị tắc ư bồ đề trung,
Kiến bất thanh tịnh,
Ư giải thoát trung,
Nhi khởi triền phược,
Kim thủy giác ngộ,
Kim thủy cải hối,
Phụng đối chư Phật,
Di Ðà Thế Tôn,
Phát lộ sám hối.
Ðương linh ngã dữ,
Pháp giới chúng sinh,
Tam nghiệp lục căn,
Vô thủy sở tác,
Hiện tác đương tác,
Tự tác giáo tha,
Kiến văn tùy hỉ,
Nhược ức bất ức,
Nhược thức bất thức,
Nhược nghi bất nghi,
Nhược phú nhược lộ,
Nhất thiết trọng tội,
Tất kính thanh tịnh.
Ngã sám hối dĩ,
Lục căn tam nghiệp,
Tịnh vô hà lụy,
Sở tu thiện căn,
Tất diệc thanh tịnh,
Giai tất hồi hướng,
Trang nghiêm Tịnh độ,
Phổ dữ chúng sinh,
Ðồng sinh An dưỡng.
Nguyện A Di Ðà Phật,
Thường lai hộ trì,
Linh ngã thiện căn,
Hiện tiền tăng tiến,
Bất thất tịnh nhân,
Lâm mệnh chung thời,
Thân tâm chính niệm,
Thị thính phân minh,
Diện phụng Di Ðà,
Dữ chư Thánh chúng,
Thủ chấp hoa đài,
Tiếp dẫn ư ngã,
Nhất sát na khoảnh,
Sinh tại Phật tiền,
Cụ Bồ tát đạo,
Quảng độ chúng sinh,
Ðồng thành chủng trí.*

113 - SÁM HỐI PHÁT NGUYỆN TÙY HỈ VĂN


Quy mạng thập phương đẳng chính giác,
Tối thắng diệu pháp, Bồ tát chúng,
Dĩ thân khẩu ý thanh tịnh nghiệp,
Ân cần hợp chưởng cung kính lễ.
Vô thủy luân hồi chư hữu trung,
Thân khẩu ý nghiệp sở sinh tội,
Như Phật Bồ tát sở sám hối,
Ngã kim trần sám diệc như thị.
Chư Phật Bồ Tát hành nguyện trung,
Kim cương tam nghiệp sở sinh phúc,
Duyên giác, Thinh văn cập hữu tình,
Sở cập thiện căn tận tùy hỷ.
Nhất thiết thế đăng tọa đạo tràng,
Giác nhãn khai phu chiếu tam hữu,
Ngã kim hồ quị tiên khuyến thỉnh,
Chuyển ư vô lượng diệu pháp luân.
Sở hữu Như Lai tam giới chủ,
Lâm bàn Vô dư Niết bàn giả,
Ngã giai khuyến thỉnh, linh cửu trụ,
Bất xả bi nguyện cứu thế gian.
Sám hối khuyến thỉnh, tùy hỷ phúc,
Nguyện ngã bất thất Bồ đề tâm,
Chư Phật Bồ Tát diệu chúng trung ,
Thường vi bạn lữ bất yếm xả.
Ly ư bát nạn sinh vô nạn,
Túc mệnh trụ trí tướng nghiêm thân,
Viễn ly ngu si cụ bi trí,
Tất năng mãn túc Ba la mật.
Phú lạc phong nhiêu sinh thắng lộc,
Quyến thuộc quảng đa thường xí thạnh,
Tứ vô ngại biện, thập tự tại,
Lục thông chư thiền tất viên mãn.
Như Kim Cương Tràng cập Phổ Hiền,
Nguyện giải hồi hướng diệc như thị.
- Trích « Ðại Bi Nghi Quỹ », TT. Thích Viên Thành biên soạn, Sài Sơn Pháp Bảo ấn hành, Hà Tây, 1993

114 - SÁM VĂN NGŨ BÁCH DANH


Nhất tự thân cư phù thế thượng,
Ða ban tác tội hướng phần lung,
Tứ đại chỉ tương tài sắc khiên,
Nhất sinh trường bả tửu nhục đam,
Dưỡng nữ chủng nam thương vật mệnh,
Dục tàm chử kiển sát sinh đầu,
Nghinh tân uấn nhưỡng tản phao đa,
Tiếp khách phanh bào vô hữu số,
Hoặc phú cự tương thăng đẩu lộng,
Hoặc bần toại tứ thiết đạo tâm,
Bất nhiên hủy Phật bách ban ngôn,
Tận thị báng Tăng đa chủng thuyết,
Phụ trái cô ân đa thiểu khổ,
Gia chư uổng lạm tác oan tăng,
Hoặc mãn thường trụ thủ tư tài,
Hoặc hướng tư tồn xâm hóa vật,
Nghiệp kính đài tiền thân hiển hiện,
Khôi hà lãng lý tự phiêu trầm,
Nhân gian bách tuế dị tiêu ma,
Ðịa ngục phiến thời nan đắc quá,
Thành thượng Thiết vi thiên trượng quảng,
Hoạch thang nhân cốt vạn điều hoành,
Dạ lai sàng thượng ngọa tràng đinh,
Nhật lý đao sơn huyền kiếm thụ,
Văn thuyết ngục trung đa thiểu khổ,
Na kham kinh lịch thụ ba cha,
Thường văn huệ - nhật hữu quang minh,
Thước phá tội khiên tiêu hắc ám,
Dục tương nhân thân vô thất lạc,
Tu bằng Phật lực tác lương duyên,
Miễn giáo lân giáp hoán nhân bì,
Bất sử vũ mao bào cốt nhục,
Vạn cổ thiên tân đầu thánh chúa,
Tái tam trần khẩn cáo Quán Âm,
Tòng tiền sở tác chúng tội khiên,
Nguyện Phật từ bi thông sám hối.*

115 - ÐẠI BI SÁM HỐI VĂN


Ðệ tử chúng đẳng ...
Dữ pháp giới nhất thiết chúng sinh,
Hiện tiền nhất tâm,
Bản cụ thiện pháp,
Giai hữu thần lực,
Cập dĩ trí minh,
Thượng đẳng Phật tâm,
Hạ đồng hàm thức,
Vô thủy ám động,
Chướng thử tĩnh minh,
Xúc sự hôn mê,
Cử tâm phọc trược,
Bình đẳng pháp trung,
Khởi tự tha tưởng,
Ái kiến vi bản,
Thân khẩu vi duyên,
Ư chư hữu trung,
Vô tội bất tạo,
Thập ác ngũ nghịch,
Báng pháp báng nhân,
Phá giới phá trai,
Hủy tháp hoại tự,
Thâu Tăng kỳ vật,
Ô tịnh phạm hạnh,
Xâm tổn thường trụ,
Ẩm thực tài vật,
Thiên Phật xuất thế,
Bất thông sám hối,
Như thị đẳng tội,
Vô lượng vô biên,
Xả tư hình mệnh,
Hợp đọa tam đồ,
Bị anh vạn khổ,
Phục ư hiện thế,
Chúng não giao tiên,
Hoặc ác tật oanh triền,
Tha duyên bức bách
Chướng ư đạo pháp
Bất đắc huân tu,
Kim ngộ Ðại Bi Viên Mãn Thần Chú,
Tốc năng diệt trừ,
Như thị tội chướng,
Cố ư kim nhật,
Chí tâm tụng trì,
Qui hướng Quán Thế Âm Bồ Tát,
Cập Thập phương Ðại sư,
Phát Bồ đề tâm,
Tu chân ngôn hạnh,
Dữ chư chúng sinh,
Phát lộ chúng tội,
Cầu khất sám hối,
Tất kính tiêu trừ.
Duy nguyện Ðại bi
Quán Thế Âm Bồ Tát Ma ha tát,
Thiên thủ hộ trì,
Thiên nhỡn chiếu kiến,
Ninh ngã đẳng :
Nội ngoại chướng duyên tịch diệt,
Tự tha hành nguyện viên thành,
Khai bản kiến tri,
Chế chư ma ngoại,
Tam nghiệp tinh tiến,
Tu Tịnh độ nhân,
Chí xả thử thân,
Cánh vô tha thú,
Quyết định đắc sinh,
A Di Ðà Phật Cực Lạc thế giới,
Thân thừa cúng dàng.
Ðại Bi Quán Âm,
Cụ chư tổng trì,
Quảng độ quần phẩm,
Giai xuất khổ luân,
Ðồng đáo trí địa.*

116 - SÁM VĂN QUAN ÂM TIÊU NGHIỆP CHƯỚNG


Ngã cập chúng sinh
Vô thủy thường vị
Tam nghiệp lục căn
Trọng tội sở chướng,
Bất kiến chư Phật,
Bất tri xuất yếu,
Ðãn thuận sinh tử,
Bất tri diệu lý,
Ngã kim tuy tri,
Bo dữ chúng sinh,
Ðồng vị nhứt thiết,
Trọng tội sở chướng,
Kim đối Quan Âm
Thập phương Phật tiền,
Phổ vị chúng sinh,
Qui mệnh sám hối.
Duy nguyện gia hộ,
Ninh chướng tiêu diệt,
Ngã dữ chúng sinh,
Vô thủy lai kim,
Do ái kiến cố,
Nội kế ngã nhân,
Ngoại gia ác hữu,
Bất tùy hỷ tha,
Nhất hào chi thiện,
Duy biến tam nghiệp,
Quảng tạo chúng tội,
Sự tuy bất quảng,
Ác tâm biến bố,
Trú dạ tương tục,
Vô hữu gián đoạn,
Phú quý quá thất,
Bất dục nhân tri,
Bất úy ác đạo,
Vô tàm vô quí,
Bác vô nhân quả,
Cố ư kim nhật,
Thâm tín nhân quả,
Sinh trọng tàm quí,
Sinh đại bố úy,
Phát lộ sám hối,
Ðoạn tương tục tâm,
Phát Bồ đề tâm,
Ðoạn ác tu thiện,
Cần sách tam nghiệp,
Phiên âm trọng quá,
Tùy hỷ phàm thánh,
Nhất hào chi thiện,
Niệm Thập phương Phật,
Hữu đại phúc tuệ,
Năng cứu bạt ngã,
Cập chư chúng sinh,
Tòng nhị tử hải,
Chí tam Ðức ngạn,
Tòng vô thủy lai,
Bất tri chư pháp,
Cầu tính không tịch,
Quảng tạo chúng ác,
Kim tri không tịch
Vị cầu Bồ đề,
Vị chúng sinh cố,
Quảng tu chư thiện,
Biến đoạn chúng ác,
Duy nguyện Quán Âm,
Từ bi nhiếp thụ.*

117 - VĂN PHỔ SÁM BẠCH


Ngưỡng khải Quán Thế Âm Bồ Tát,
Từ bi chẩn niệm,
Lợi tế minh tâm,
Thị đầu thành khởi kính chi phương,
Xiển cải quá tự tân chi lộ,
Ai căng ngã đẳng,
Phả cập hữu tình,
Kim thế kim sinh,
Cố vi tội cấu,
Túc duyên túc nghiệp,
Tất hữu oan khiên,
Vong thân sám hối chi nghi,
Thượng ký hàm dung chi đức,
Lục thú đãng trừ tư pháp thủy,
Tam đồ phiến khứ lai từ phong,
Tội căn phiên tác phúc căn,
Ác quả hóa vi thiện quả,
Phục vọng Từ Tôn,
Phủ dung sám hối,
Phả vị tứ ân tam hữu,
Pháp giới chúng sinh,
Tất nguyện đoạn trừ chư chướng;
Quy mệnh lễ sám hối.*
* Trích “Chư Kinh Nhật Tụng”,Thích Chân Lý ,Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM. xuất bản, 1996

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/10/2014(Xem: 6437)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21238)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7217)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 6812)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 13652)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
14/10/2014(Xem: 8730)
Bạn chưa từng ghé thăm mà không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống, và líu lo: - Hên ghê, mình vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới. Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
14/10/2014(Xem: 8030)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
14/10/2014(Xem: 8349)
Mỗi tuần, tôi có một ngày để làm hai việc tuyệt vời. Đó là, thứ nhất: làm thinh, thứ hai: không làm gì cả! Hôm nay đang là phút giây tuyệt vời đó. Sau những ngày lạnh bất thường, nắng sáng nay rất đẹp, vàng óng và ấm áp. Cây cỏ hoa lá rộ lên niềm vui. Mọi cánh cửa mở rộng để nắng ghé vào, mang hương thơm của đất trời chuyển hóa. Không mùi hương nhân tạo nào so sánh được với hương gió núi mây ngàn. Ít nhất, chủ quan tôi như thế.
14/10/2014(Xem: 7184)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
13/10/2014(Xem: 8283)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn. Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]