Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần thứ I: Các bài sám văn âm chữ Hán

10/05/201317:34(Xem: 15504)
Phần thứ I: Các bài sám văn âm chữ Hán

Tuyển tập các bài sám văn - Tập III: 55 Bài sám văn âm nghĩa sưu tập

Phần thứ I: Các bài sám văn âm chữ Hán

Thích Đồng Bổn sưu tập

Nguồn: Thích Đồng Bổn sưu tập

Lời Nói Ðầu


Qua hai tập I và II, đã có 110 bài sám văn được giới thiệu đến quí độc giả gần xa, và trên đường nghiên cứu sưu tầm, chúng tôi lần lượt phát hiện thêm nữa các dị bản, các bài sám văn mới đã và đang được sử dụng trong thời khóa các chùa, trong các nghi lễ dân gian, hoặc bằng truyền khẩu khắp cả ba miền đất nước... Ðó là động cơ thôi thúc chúng tôi tiếp tục sưu tầm để biên tập nên quyển thứ III “ 55 bài sám văn âm nghĩa sưu tập”.
Công trình sưu tập toàn bộ các bài sám hay, các áng văn vần, đã đi hơn nửa phần đường, chúng tôi vẫn tiếp tục cho đến khi nào không còn tìm được nữa mới thôi, để cho các bài sám văn không bị quên lãng theo thời gian, dẫu rằng có còn được sử dụng nữa hay không. Vì ở đó, là dấu tích của sự tu trì, là sinh hoạt nghi lễ Phật Giáo ở một địa phương, và là sự thể hiện trăm sắc ở vườn hoa văn học đạo pháp tuy rằng khác biệt các chốn Tổ, sơn môn, hệ phái, giáo phái, Tăng tục... nhưng vẫn đồng là con một nhà, là tài sản chung của kho tàng văn hóa Phật giáo Việt Nam.
Ở tập III này, phần sưu tầm có đi rộng ra ở các hệ phái, các sơn môn để phát hiện thêm các dị bản từ các bài sám văn gốc. Tuy rằng ý nghĩa là một, nhưng ở mỗi bản dịch khác nhau cũng nói lên phong cách sáng tạo văn vần của mỗi dịch giả ở mỗi nơi có cái đặc thù riêng, phù hợp việc sử dụng ở một bối cảnh nhất định. Qua biên tập góp nhặt ở quyển này, có thể giới thiệu một tập hợp rộng rãi, nếu quí Tôn đức độc giả thấy những bài có vần điệu phù hợp đem sử dụng rộng rãi như một cách giao lưu, thể hiện tâm hồn rộng mở và đoàn kết của người con Phật, thì quả là công đức vô lượng và là một khích lệ lớn lao cho người sưu tầm vậy.
Trong việc biên tập, chúng tôi cố tình không đưa hết các bài Sám văn của một tác giả - sơn môn nào hết, mà có sự phân bố đồng đều mỗi nơi một ít, để thấy được giá trị chung của tập thể là phục vụ mục đích chung nhất có hệ thống cho kho tàng văn học Phật giáo. Những bài còn lại sẽ được lần lượt giới thiệu vào quyển IV, và rất mong sự đóng góp phát hiện của các bậc thức giả xa gần hỗ trợ.
Có một số bài kinh dịch ra văn vần được tập hợp trong quyển này, tuy không mang tính chất một bài Sám văn, nhưng sự tụng đọc ở những thời điểm kỷ niệm vía chư Phật Bồ Tát như: Kinh Tám Ðiều cho Lễ vía Phật Ðản và tụng đọc hàng ngày, hoặc 48 Lời Nguyện Ðức Di Ðà cho vía Phật Di Ðà, hoặc Kinh Vô Thường cho các lễ Tống táng... đã mang ý nghĩa của một bài sám văn hầu răn nhắc chúng ta cảnh tỉnh tự thân trong cuộc sống. Chính vì thế mà chúng tôi đã đưa vào tuyển tập như một bài Sám văn, để bình thường hóa hơn công dụng của những kinh trên đi vào cuộc sống và tâm thức mọi người. Vì rằng thể loại sám văn được tụng đọc nhiều hơn, thuộc lòng nhiều hơn, sử dụng giản đơn hơn, còn kinh điển thì phải được tụng đọc trang nghiêm, có nghi thức khai kinh, mõ chuông ở trước Phật tiền.
Vẫn như quyển trước, tập III này có thêm phần các bài Sám văn âm chữ Hán mà chúng tôi mới sưu tầm thêm. Và vẫn tiếp tục việc đánh số theo thứ tự nối tiếp hai tập trước để dễ dàng nhận biết tìm kiếm, vì rằng tên tựa các bài sám văn thì hầu như đều giống nhau. Tập III này được bắt đầu từ bài thứ 111 đến bài 165. Ngoài ra, có đôi bài cần thiết tụng đọc nhưng chưa phải là một bài sám văn, chỉ là một bài kệ thường dùng, thì chúng tôi vẫn sưu tập vào đây để làm tư liệu cho quý độc giả, làm phần phụ lục thêm thôi.
Cuối cùng, vẫn chưa phải là hết cho công trình sưu tập các bài sám văn này, rất mong mỏi quý liệt vị Tôn Ðức Tăng Ni, Phật tử độc giả xa gần đóng góp bổ sung và cho ý kiến những chỗ sai sót, để chúng tôi kịp thời đính chính ở lần tái bản, cũng như được thêm tư liệu hoàn thành cho tập sau, ngõ hầu đầy đủ hơn, hoàn chỉnh hơn, không để các áng văn vần hay của chúng ta còn bị rơi rớt mai một đâu đó...
Và sau nữa, xin chân thành tri ân cùng cảm niệm công đức chư Tôn Túc Hòa thượng, Thượng tọa, Ðại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử đã giúp đỡ cung cấp tư liệu để cho tuyển tập này được hoàn thành và ra mặt độc giả một cách trọn vẹn.

Trọng xuân năm Ðinh Sửu 1997
Người góp nhặt
THÍCH ÐỒNG BỔN


111 - VĂN PHÁT NGUYỆN HƯỚNG TAM BẢO


Ngã sinh bất thiện chư phiền não,
Nguyện vĩnh tiêu trừ tội chướng nhân,
Vị ngộ mê tà thập ác triền,
Nguyện bất giữ tâm tương tục khởi,
Dục giới, sắc giới, vô sắc giới,
Tảo đoạn triền miên hữu lậu nhân,
Nhiễm nhân nhiễm quả nhiễm trần duyên,
Nguyện hướng sinh sinh bất tương tục,
Thuận hiện thuận tiền thuận hậu nghiệp,
Tam thế oan vưu vĩnh diệt trừ,
Phá trai phá giới phá uy nghi,
Nhất thiết chí tâm giai sám hối,
Nghiệp chướng báo chướng phiền não chướng;
Quán thân thực tướng tính câu không,
Kính Phật, kính Pháp, kính chân Tăng,
Thanh tịnh pháp thân tảo huân hiển.*

112 - SÁM HỐI VĂN


Chí tâm sám hối.
Ngã đệ tử (chúng đẳng) ...
Cập pháp giới chúng sinh,
Tòng vô thủy thế lai,
Vô minh sở phú,
Ðiên đảo mê hoặc,
Nhi do lục căn tam nghiệp,
Tập bất thiện pháp,
Quảng tạo thập ác,
Cập ngũ vô gián,
Nhất thiết chúng tội,
Vô lượng vô biên
Thuyết bất khả tận.
Thập phương chư Phật,
Thường tại thế gian,
Pháp âm bất tuyệt,
Diệu hương sung tắc,
Pháp vị doanh không,
Phóng tịnh quang minh,
Chiếu xúc nhất thiết,
Thường trụ diệu lý,
Biến mãn hư không,
Ngã vô thủy lai,
Lục căn nội manh,
Tam nghiệp hôn ám,
Bất kiến bất văn,
Bất giác bất tri,
Dĩ thị nhân duyên,
Trường lưu sinh tử,
Kinh lịch ác đạo,
Bách thiên vạn kiếp,
Vĩnh vô xuất kỳ,
Kinh vân Tỳ Lư Giá Na,
Biến nhất thiết xứ,
Kỳ Phật sở trụ,
Danh Thường Tịch Quang,
Thị cố đương tri,
Nhất thiết chư pháp,
Vô phi Phật pháp,
Nhi ngã bất liễu,
Tùy vô minh lưu,
Thị tắc ư bồ đề trung,
Kiến bất thanh tịnh,
Ư giải thoát trung,
Nhi khởi triền phược,
Kim thủy giác ngộ,
Kim thủy cải hối,
Phụng đối chư Phật,
Di Ðà Thế Tôn,
Phát lộ sám hối.
Ðương linh ngã dữ,
Pháp giới chúng sinh,
Tam nghiệp lục căn,
Vô thủy sở tác,
Hiện tác đương tác,
Tự tác giáo tha,
Kiến văn tùy hỉ,
Nhược ức bất ức,
Nhược thức bất thức,
Nhược nghi bất nghi,
Nhược phú nhược lộ,
Nhất thiết trọng tội,
Tất kính thanh tịnh.
Ngã sám hối dĩ,
Lục căn tam nghiệp,
Tịnh vô hà lụy,
Sở tu thiện căn,
Tất diệc thanh tịnh,
Giai tất hồi hướng,
Trang nghiêm Tịnh độ,
Phổ dữ chúng sinh,
Ðồng sinh An dưỡng.
Nguyện A Di Ðà Phật,
Thường lai hộ trì,
Linh ngã thiện căn,
Hiện tiền tăng tiến,
Bất thất tịnh nhân,
Lâm mệnh chung thời,
Thân tâm chính niệm,
Thị thính phân minh,
Diện phụng Di Ðà,
Dữ chư Thánh chúng,
Thủ chấp hoa đài,
Tiếp dẫn ư ngã,
Nhất sát na khoảnh,
Sinh tại Phật tiền,
Cụ Bồ tát đạo,
Quảng độ chúng sinh,
Ðồng thành chủng trí.*

113 - SÁM HỐI PHÁT NGUYỆN TÙY HỈ VĂN


Quy mạng thập phương đẳng chính giác,
Tối thắng diệu pháp, Bồ tát chúng,
Dĩ thân khẩu ý thanh tịnh nghiệp,
Ân cần hợp chưởng cung kính lễ.
Vô thủy luân hồi chư hữu trung,
Thân khẩu ý nghiệp sở sinh tội,
Như Phật Bồ tát sở sám hối,
Ngã kim trần sám diệc như thị.
Chư Phật Bồ Tát hành nguyện trung,
Kim cương tam nghiệp sở sinh phúc,
Duyên giác, Thinh văn cập hữu tình,
Sở cập thiện căn tận tùy hỷ.
Nhất thiết thế đăng tọa đạo tràng,
Giác nhãn khai phu chiếu tam hữu,
Ngã kim hồ quị tiên khuyến thỉnh,
Chuyển ư vô lượng diệu pháp luân.
Sở hữu Như Lai tam giới chủ,
Lâm bàn Vô dư Niết bàn giả,
Ngã giai khuyến thỉnh, linh cửu trụ,
Bất xả bi nguyện cứu thế gian.
Sám hối khuyến thỉnh, tùy hỷ phúc,
Nguyện ngã bất thất Bồ đề tâm,
Chư Phật Bồ Tát diệu chúng trung ,
Thường vi bạn lữ bất yếm xả.
Ly ư bát nạn sinh vô nạn,
Túc mệnh trụ trí tướng nghiêm thân,
Viễn ly ngu si cụ bi trí,
Tất năng mãn túc Ba la mật.
Phú lạc phong nhiêu sinh thắng lộc,
Quyến thuộc quảng đa thường xí thạnh,
Tứ vô ngại biện, thập tự tại,
Lục thông chư thiền tất viên mãn.
Như Kim Cương Tràng cập Phổ Hiền,
Nguyện giải hồi hướng diệc như thị.
- Trích « Ðại Bi Nghi Quỹ », TT. Thích Viên Thành biên soạn, Sài Sơn Pháp Bảo ấn hành, Hà Tây, 1993

114 - SÁM VĂN NGŨ BÁCH DANH


Nhất tự thân cư phù thế thượng,
Ða ban tác tội hướng phần lung,
Tứ đại chỉ tương tài sắc khiên,
Nhất sinh trường bả tửu nhục đam,
Dưỡng nữ chủng nam thương vật mệnh,
Dục tàm chử kiển sát sinh đầu,
Nghinh tân uấn nhưỡng tản phao đa,
Tiếp khách phanh bào vô hữu số,
Hoặc phú cự tương thăng đẩu lộng,
Hoặc bần toại tứ thiết đạo tâm,
Bất nhiên hủy Phật bách ban ngôn,
Tận thị báng Tăng đa chủng thuyết,
Phụ trái cô ân đa thiểu khổ,
Gia chư uổng lạm tác oan tăng,
Hoặc mãn thường trụ thủ tư tài,
Hoặc hướng tư tồn xâm hóa vật,
Nghiệp kính đài tiền thân hiển hiện,
Khôi hà lãng lý tự phiêu trầm,
Nhân gian bách tuế dị tiêu ma,
Ðịa ngục phiến thời nan đắc quá,
Thành thượng Thiết vi thiên trượng quảng,
Hoạch thang nhân cốt vạn điều hoành,
Dạ lai sàng thượng ngọa tràng đinh,
Nhật lý đao sơn huyền kiếm thụ,
Văn thuyết ngục trung đa thiểu khổ,
Na kham kinh lịch thụ ba cha,
Thường văn huệ - nhật hữu quang minh,
Thước phá tội khiên tiêu hắc ám,
Dục tương nhân thân vô thất lạc,
Tu bằng Phật lực tác lương duyên,
Miễn giáo lân giáp hoán nhân bì,
Bất sử vũ mao bào cốt nhục,
Vạn cổ thiên tân đầu thánh chúa,
Tái tam trần khẩn cáo Quán Âm,
Tòng tiền sở tác chúng tội khiên,
Nguyện Phật từ bi thông sám hối.*

115 - ÐẠI BI SÁM HỐI VĂN


Ðệ tử chúng đẳng ...
Dữ pháp giới nhất thiết chúng sinh,
Hiện tiền nhất tâm,
Bản cụ thiện pháp,
Giai hữu thần lực,
Cập dĩ trí minh,
Thượng đẳng Phật tâm,
Hạ đồng hàm thức,
Vô thủy ám động,
Chướng thử tĩnh minh,
Xúc sự hôn mê,
Cử tâm phọc trược,
Bình đẳng pháp trung,
Khởi tự tha tưởng,
Ái kiến vi bản,
Thân khẩu vi duyên,
Ư chư hữu trung,
Vô tội bất tạo,
Thập ác ngũ nghịch,
Báng pháp báng nhân,
Phá giới phá trai,
Hủy tháp hoại tự,
Thâu Tăng kỳ vật,
Ô tịnh phạm hạnh,
Xâm tổn thường trụ,
Ẩm thực tài vật,
Thiên Phật xuất thế,
Bất thông sám hối,
Như thị đẳng tội,
Vô lượng vô biên,
Xả tư hình mệnh,
Hợp đọa tam đồ,
Bị anh vạn khổ,
Phục ư hiện thế,
Chúng não giao tiên,
Hoặc ác tật oanh triền,
Tha duyên bức bách
Chướng ư đạo pháp
Bất đắc huân tu,
Kim ngộ Ðại Bi Viên Mãn Thần Chú,
Tốc năng diệt trừ,
Như thị tội chướng,
Cố ư kim nhật,
Chí tâm tụng trì,
Qui hướng Quán Thế Âm Bồ Tát,
Cập Thập phương Ðại sư,
Phát Bồ đề tâm,
Tu chân ngôn hạnh,
Dữ chư chúng sinh,
Phát lộ chúng tội,
Cầu khất sám hối,
Tất kính tiêu trừ.
Duy nguyện Ðại bi
Quán Thế Âm Bồ Tát Ma ha tát,
Thiên thủ hộ trì,
Thiên nhỡn chiếu kiến,
Ninh ngã đẳng :
Nội ngoại chướng duyên tịch diệt,
Tự tha hành nguyện viên thành,
Khai bản kiến tri,
Chế chư ma ngoại,
Tam nghiệp tinh tiến,
Tu Tịnh độ nhân,
Chí xả thử thân,
Cánh vô tha thú,
Quyết định đắc sinh,
A Di Ðà Phật Cực Lạc thế giới,
Thân thừa cúng dàng.
Ðại Bi Quán Âm,
Cụ chư tổng trì,
Quảng độ quần phẩm,
Giai xuất khổ luân,
Ðồng đáo trí địa.*

116 - SÁM VĂN QUAN ÂM TIÊU NGHIỆP CHƯỚNG


Ngã cập chúng sinh
Vô thủy thường vị
Tam nghiệp lục căn
Trọng tội sở chướng,
Bất kiến chư Phật,
Bất tri xuất yếu,
Ðãn thuận sinh tử,
Bất tri diệu lý,
Ngã kim tuy tri,
Bo dữ chúng sinh,
Ðồng vị nhứt thiết,
Trọng tội sở chướng,
Kim đối Quan Âm
Thập phương Phật tiền,
Phổ vị chúng sinh,
Qui mệnh sám hối.
Duy nguyện gia hộ,
Ninh chướng tiêu diệt,
Ngã dữ chúng sinh,
Vô thủy lai kim,
Do ái kiến cố,
Nội kế ngã nhân,
Ngoại gia ác hữu,
Bất tùy hỷ tha,
Nhất hào chi thiện,
Duy biến tam nghiệp,
Quảng tạo chúng tội,
Sự tuy bất quảng,
Ác tâm biến bố,
Trú dạ tương tục,
Vô hữu gián đoạn,
Phú quý quá thất,
Bất dục nhân tri,
Bất úy ác đạo,
Vô tàm vô quí,
Bác vô nhân quả,
Cố ư kim nhật,
Thâm tín nhân quả,
Sinh trọng tàm quí,
Sinh đại bố úy,
Phát lộ sám hối,
Ðoạn tương tục tâm,
Phát Bồ đề tâm,
Ðoạn ác tu thiện,
Cần sách tam nghiệp,
Phiên âm trọng quá,
Tùy hỷ phàm thánh,
Nhất hào chi thiện,
Niệm Thập phương Phật,
Hữu đại phúc tuệ,
Năng cứu bạt ngã,
Cập chư chúng sinh,
Tòng nhị tử hải,
Chí tam Ðức ngạn,
Tòng vô thủy lai,
Bất tri chư pháp,
Cầu tính không tịch,
Quảng tạo chúng ác,
Kim tri không tịch
Vị cầu Bồ đề,
Vị chúng sinh cố,
Quảng tu chư thiện,
Biến đoạn chúng ác,
Duy nguyện Quán Âm,
Từ bi nhiếp thụ.*

117 - VĂN PHỔ SÁM BẠCH


Ngưỡng khải Quán Thế Âm Bồ Tát,
Từ bi chẩn niệm,
Lợi tế minh tâm,
Thị đầu thành khởi kính chi phương,
Xiển cải quá tự tân chi lộ,
Ai căng ngã đẳng,
Phả cập hữu tình,
Kim thế kim sinh,
Cố vi tội cấu,
Túc duyên túc nghiệp,
Tất hữu oan khiên,
Vong thân sám hối chi nghi,
Thượng ký hàm dung chi đức,
Lục thú đãng trừ tư pháp thủy,
Tam đồ phiến khứ lai từ phong,
Tội căn phiên tác phúc căn,
Ác quả hóa vi thiện quả,
Phục vọng Từ Tôn,
Phủ dung sám hối,
Phả vị tứ ân tam hữu,
Pháp giới chúng sinh,
Tất nguyện đoạn trừ chư chướng;
Quy mệnh lễ sám hối.*
* Trích “Chư Kinh Nhật Tụng”,Thích Chân Lý ,Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM. xuất bản, 1996

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2014(Xem: 7552)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9049)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 14218)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8141)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 12803)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8443)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10006)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9330)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8314)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 8677)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]