Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02 - Văn khuyên phát tâm Bồ-đề

24/04/201318:00(Xem: 9085)
02 - Văn khuyên phát tâm Bồ-đề


Khóa Hư Lục
Tác giả:Hoàng Đế Trần Thái Tông
Dịch giả:HT. Thích Thanh Kiểm

---o0o---

QUYỂN THƯỢNG

---o0o---

Văn Khuyên Phát Tâm Bồ-Đề

Ôi! Vật quý nhất đời chỉ là vàng ngọc vậy. Song xét tới chỗ quan trọng, chỗ luyến tiếc, lại không thể sánh bằng thân mạng. Ví như có nhà giầu sang, được người vời làm đại-tướng, dùng vàng làm áo giáp hộ thân, đến lúc lâm chiến, khi gươm đao tiếp nhau, có lúc phải bỏ áo giáp kéo gươm mà chạy, chỉ mong bảo toàn tính mạng, áo giáp bằng vàng kia, đâu còn đoái hoài đến. Liền biết, cái quý trong của vàng cũng không đủ so sánh với thân mạng chính là nghĩa đó. Người đời nay không thế, lại quý vật mà khinh thân. Họ không biết thân này có 3 điều khó gặp. Những gì là ba. 1.- Trong vòng lục đạo, duy con người là quý. Đến khi nhắm mắt qua đời, tối tăm mờ mịt, chẳng biết chỗ đi về đâu. Hoặc vào đường địa ngục, A-tu-la hay ngã quỷ, súc sinh, chẳng được làm người, đó là điều khó gặp thứ nhất. 2.- Đã được làm người, hoặc lại sinh vào chốn man-di, tắm cùng khúc sông, ngủ cùng giường niệm, tôn ty lẫn lộn, trai gái sống chung, chẳng đượm gió nhân, không nhuần Thánh hóa, đó là điều khó gặp thứ hai. 3.- Tuy được sinh nơi văn-hóa nhưng sáu căn chẳng đủ, bốn thể không toàn, mù điếc ngọng câm, gù khom khập khiễng, miệng mũi hôi thối, thân hình nhớp nhơ, thấy chẳng cùng gần, chúng không thích tới. Tuy ở chỗ văn minh cao độ, nhưng khác gì ngoài chốn hoang-vu, đó là điều khó gặp thức ba. Nay đã được làm người, được sinh nơi trung-tâm văn-hóa, lại sáu căn đầy đủ, thật đáng quý thay. Phàm người ở đời, chỉ bon chen đường danh lợi, thương tổn tinh thần, mệt nhọc thể xác, bỏ phần cao quý nơi thân mạng mình, theo cái đáng khinh nơi của cải nọ, chẳng khác gì như kẻ ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên mép (1). Tuy nói thân này là quan trọng, nhưng vẫn chưa quan trọng bằng chí đạo. Nên Khổng-Tử nói: "Buổi sớm được nghe đạo, chiều có chết cũng vui" (2). Lão-tử nói: "Ta sở dĩ có cái lo lớn, vì ta có thân" (3). Đức Thế-Tôn khi cầu đạo thì bỏ thân cứu hổ. Há chẳng phải đều là chỗ khinh thân trọng đạo của ba bậc Thánh-nhân đó sao? Than ôi! Cái quan-trọng của thân mạng còn nên bỏ để cầu đạo vô-thượng bồ-đề, nữa là phần đáng khinh nơi vàng bạc của báu mà lại luyến tiếc ư! Ôi! Trong ấp mười nóc nhà, còn có người trung tín (4), lẽ nào tất cả ở đời, há lại không có người thông-minh sáng suốt hay sao? Hãy nghe theo lời ấy, nên chăm lo tu học, chớ có nghi ngờ. Trong kinh nói: "Một khi mất thêm người, muôn kiếp khó trở lại. Thật đau đớn xiết bao! Thế nên Khổng-Tử nói: "Người mà không chịu làm, ta chẳng biết làm sao được".

Ôi! xét cho rõ: Trăm năm ánh sáng, trong một sát-na; bốn đại huyễn thân, đâu hay lâu đặng. Trọn ngày ruổi rong nghiệp thức (5), quanh năm đắm đuối trần-lao (6). Không biết một tính viên-minh, chỉ theo sáu căn tham dục. Giàu sang nhất mực, khó tránh 2 chữ vô thường; công danh nhất đời, chẳng thoát một trường đại mộng. Tranh nhân tranh ngã, rốt cuộc thành không. Khoe giỏi khoe hay, đều là chẳng thật. Gió lửa tiêu tan bao già trẻ, núi khe rủa nát mấy anh hùng. Mái xanh chưa mấy, tóc bạc vội lấn dần; kẻ mừng vừa đi, người viếng len chân tới. Một bao máu mủ, chuỗi năm luyến tiếc ân-tình; bảy thước xương khô; rông rỡ tham lam của báu. Thở ra khôn bề thở lại, ngày nay khó đợi ngày mai. Sông yêu chìm nổi chẳng lúc ngơi, nhà cháy nấu nung ngày nào hết. Chẳng nguyện xa lìa lưới nghiệp, chỉ vì chưa có công phu. Diêm-La-Vương bỗng chốc lại đòi. Thôi Tướng-công (7) nào cho thêm hạn. Ngoảnh lại người thân đều chẳng thấy, cuối cùng nghiệp báo tự mình mang. Quỷ vương ngục tốt, mặc sức khảo tra; rừng kiếm núi đao, vô phương chống đỡ. Hoặc giam trong vòng vây sắt, hoặc ở dưới núi ốc-tiêu (8). Chịu vạc dầu thời muôn chết ngàn sinh, phải chém chặt thời một dao hai khúc. Đói nuốt sắt nóng, khát uống đồng sôi. Mười hai giờ cam chịu đắng cay, năm trăm kiếp chẳng thấy hình dạng. Chịu hết tội nghiệp, lại vào luân hồi. Mất hẳn dáng người thuở xưa, đổi ra thân hình hiện tại. Đội yên ngậm sắt, mang lông đeo sừng. Lấy thịt nuôi người, đem thân trả nợ. Sinh bị khổ đau dao thớt, sống gặp tai vạ lửa sôi. Chồng chất oán thù, cùng nhau rỉa thịt. Khi đó mới hối, học đạo không nền. Chi bằng gấp rút đảm đương, chớ để đời này lỡ dở.

Thích-Ca văn-phật, bỏ hoàng cung đến thẳng tuyết sơn; Cư-sĩ Bàng-Công (9) đem gia tài hết dìm biển cả. Chân-Võ (10) chẳng lên ngôi báu, chi lo tu hành; Lã-Công (11) đã chuộng thần tiên, còn siêng tham vấn. Tô học-sĩ (12) thường thân Phật-Ấn, Hàn-Văn-Công (13) còn lễ Đại-Điên. Bùi-Công (14) đoạt hốt ở Thạch-Sương, Phòng-Tướng (15) hỏi pháp nơi Quốc-Nhất. Diệu-Thiện (16) chẳng kén phò-mã, thành Phật không ngờ; Lục-Tổ (17) vừa gặp khách hiền, nghe kinh đốn ngộ. Đạo Thiền nếu không thú vị, Thánh hiền sao chịu quy-y. Hoa-Lâm (18) cảm 2 cọp theo hầu, Đầu-Tử có 3 chim báo sáng. Lý trưởng-giả (19) giải kinh mà thiên-trù dâng cỗ, Tu-Bồ-Đề (20) tĩnh tọa mà Đế-Thích tung hoa. Đạt-Ma (21) một dép về Tây, Phổ-Hóa (22) rung chuông bay bổng. La-Hán (23) tham thiền ở Ngưỡng-Sơn hòa-thượng. Nhạc-Đế (24) thọ giới ở Tư-Đại thiền-sư. Kính-Sơn (25) đến nay vẫn được Long-Vương dâng cúng; Tuyết-Phong (26) từ trước, hay khiến người gỗ mở rừng. Đó là những thể nghiệm nhân do, chớ tự sinh nghi ngờ lùi bước. Cáo đồng (27) còn nghe pháp Bách-Trượng, ốc văn hay hộ kinh Kim-Cương (28). Mười ngàn cá bơi (29) nghe hiệu Phật hóa làm Thiên-Tử năm trăm dơi lượn (30), nghe tiếng pháp đều đặng Thánh-hiền. Trăn nghe sám (31) được sinh thiên, rồng nghe kinh mà ngộ đạo (32). Vật kia còn hay lãnh ngộ, nữa người sao chẳng hồi tâm. Hoặc có kẻ vùi đầu ăn uống mà uổng một đời, hoặc có kẻ lầm lối tu hành mà không xét lại. Hay đâu, bồ-đề tính-giác, ai nấy viên-thành; sao biết, bát nhã căn lành, người người đầy đủ. Hỏi chi đại-ẩn, tiểu-ẩn (33), chẳng kể tại gia xuất gia. Không nề tăng tục, chỉ cốt biện tâm. Vốn không gái trai, chẳng nên trước tướng. Người chưa tường còn chia tam-giáo (34), Liễu được thấu đều ngộ nhất tâm. Nếu hay chiếu sáng rọi về, đều được thấy tánh thành Phật. Lại nữa, thân người dễ mất, Phật pháp khó nghe. Muốn vượt sáu ngả mãi xoay tròn, chỉ có nhất thừa là đường tắt. Nên tìm chính kiến, chớ tin ta sư. Ngộ được chính là chỗ vào, làm xong mới hay thoát tục. Bước bước xéo đạp thật địa, đầu đầu mang đội hư không. Khi dùng thời muôn cảnh đều phô, thu lại thời mảy may hết sạch. Vượt lên chỗ chẳng tương quan sinh tử, thấu tới cơ khó thấu hiểu quỷ thần. Là phàm là thánh, cùng vào một đường; hoặc oán hoặc thân, cùng chung hổng mũi. Thật ngộ như thế, con trệ nửa đường. Ngưng nói hướng thượng tam huyền (35), cần rõ một bước sau chót (36). Hãy nói, tức là hiện nay gọi cái gì là một bước sau chót.

Non xanh thoai thoải nhìn trời rộng,
Sen biếc ngạt ngào đượm nước hương (37).

* Chú Thích

(1)Ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên mép- đều là những tỷ dụ, ám chỉ cho kẻ ngu, chỉ ham cái lợi nhỏ trước mắt, mà bỏ mất cái lợi ích quan trọng.

(2)Buổi sớm được nghe đạo:Sách Luận-ngữ, thiên Lý-nhân, Đức Khổng-Tử nói: "Chiêu văn đạo tịch tử khả hỷ".

(3)Ta sở dĩ có cái lo lớn, vì ta có thân- Đạo-Đức Kinh, ngài Lão-Tử nói: "Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân".

(4)Trong ấp mười nóc nhà còn có người trung tín- Lấy câu trong sách Luận-ngữ: "Thập thất chi ấp, thượng hữu trung tín.

(5)Nghiệp-thức - Nghiệp-thức là hoặc của căn bản vô-minh. Tâm nguyên của bản giác vốn không có tướng-động từ lúc đầu, nhưng thình lình bị lay động bởi bất giác, đó là nghiệp-thức.

(6)Trần-lao - Phiền não của 5 dục, sáu trần làm ô nhiễm nơi thân tâm thanh tịnh mà phải khổ, nên gọi là trần lao. 5 dục: Tài, sắc, danh, thực, thụy; 6 trần tức là 6 cảnh: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

(7)Thôi-tướng-công:Chỉ quỷ sứ canh ngục.

(8)Dưới núi ốc-tiêu: Ở đáy biển có núi rất lớn gọi là ốc-tiêu. Dưới núi ốc-tiêu có địa ngục A-tỳ, lửa thường nung đốt, núi thường nóng chảy.

(9)Bàng-Công cư-sĩ:Tức là Bàng Uẩn, hiệu là Đạo-Huyền, người huyện Hành-Dương, Trung-Quốc, vốn theo nho nghiệp, tư chất thông-minh, sau tham thiền ở Thạch-Đầu Hy-Vậnh, hoát nhiên liễu ngộ, và đắc pháp ở ngài Mã-Tổ Đạo-Nhất.

(10)Chân-Võ:Đời nhà Hán, Thái-tử vua nước Trịnh-Lạc, khi sinh ra có nhiều điểm lạ, lớn lên có chí trừ khử ta ma, vượt biển Đông gặp thiên thần trao cho bảo kiếm. Chân-Vũ tu luyện ở núi Đông-Hải 42 năm thành công, ngay ban ngày bay lên không, được vâng mệnh Thượng-đế trấn thủ phương Bắc. Vốn tên là Huyền-Võ sau đổi là Chân-Võ.

(11)Lã-Công:Tức là Lã-Đồng-Tân, người Kinh-Triệu đời Đường. Chính tên là Nham, tên chữ là Đồng-Tân, lại gọi là Lã-Tổ, hiệu là Thuần-Dương-Tử, một người trong bát tiên của Đạo-Giáo.

(12)Tô học-sĩ:Tức Tô-Thức, tên chữ là Tử-Chiêm, hiệu là Đông-Pha cư sĩ, người Mi-sơn, đời Tống. Viếng chùa Kim-sơn ở Tô-châu, gặp Phật-Ấn Liễu-Nguyên thiền sư, vấn đáp về thiền-đạo, phục tài cao của Phật-Ấn , liền cỡi đai ngọc để tại chùa Phật-Ấn kỷ niệm.

(13)Hàn-Văn-Công:Tức Hàn-Dũ, người Xương-Lê đời Đường, đậu Tiến-sĩ. Vì dâng biểu can vua Hiến-Tông rước Xá-Lợi Phật vào cung, nên bị đày đi Trào-Châu. Ở đây, Hàn-Dũ có viết thư mời Đại-Điên Thiên-sư chùa Linh-sơn ở phía tây Trào-Châu để tranh luận về đạo cùng nhau đi lại nhiều lần, sau quy-y Đại-Điên.

(14)Bùi-Công: Tức Bùi-Hưu, một người học Phật đời Đường, họ Bùi, tên Hưu, tên chữ là Công-Mỹ, đậu Tiến-sĩ, giao du cùng ngài Khuê-Phong Tông-Một, thông đạt kinh Hoa-Nghiêm, sau đắc Pháp ở Ngài Hoàng-Nghiệt Hy-Vận thiền-sư. Đoạt hốt - các quan đại thần xưa, khi triều vua tay thường cầm cái hốt ở tay đế tâu bạch, hay thụ mệnh, ngoài ra dùng để ghi chép những sự kiện cho nhớ. Vậy đoạt hốt có nghĩa là, Bùi Hưu bị đoạt mất chí khí ở ngài Thạch-Sương. Thạch-Sương: Tức Thạch-Sương Khánh-Chư, cao tăng đời Đường, thuộc họ Thanh-Nguyên, tham thiền ngài Qui-Sơn, thấu được áo chỉ, trụ ở núi Thạch-Sương, châu Đàm, được vua Đường Hy-Tông ban áo cà-sa gấm.

(15) Phòng-Tướng: Tức Phòng-Huyền-Linh, tên hèm là Văn-Chiêu, 18 tuổi đậu Tiến-sĩ, giúp Đường Thái-Tông dấy nghiệp, làm chức Tể-Tướng, được phong tước Lương-Quốc-Công. Quốc-Nhất: Tức Đạo-Khâm thiền sư, người huyện Côn-Sơn thuộc Tô-Châu, được Đường Đại-Tông vời vào cung hỏi đạo, ban cho hiệu Quốc-Nhất thiền-sư.

(16)Diệu-Thiện:Tức Diệu-Thiện công-chúa, tiền thân của Bồ-Tát Quán-Thế-Âm. Nam-Sơn Tuyên Luật-sư thường hỏi thiên-thần về duyên khởi của Đức Quan-Âm. Thiên-Thần thưa: Về kiếp quá khứ xưa kia có vua Trang-Vương, phu-nhân tên là Bảo Ứng sinh được 3 gải. Con lớn là Diệu-Dục, con thứ là Diệu-Ân, con út là Diệu-Thiện. Diệu-Thiện chỉ chuyên việc tu hành, không lập phò-mã (cũng tương tự như sự tích chùa Hương-Tích Việt-Nam).

(17)Lục-Tổ: Tức Tổ Huệ-Năng, Tổ thứ 6 của Thiền-tông đời Đường, cũng gọi là Đạik-Giám Tuệ-Năng. Ngài họ Lư, mồ côi cha từ lúc 3 tuổi, nhà nghèo, phải đi kiếm củi nuôi mẹ. Một ngày mang củi vào chợ bán, nghe người đọc kinh Kim-Cương, liền nẩy ý chí xuất-trần nhập đạo.

(18) Hoa-Lâm: Tức Hoa-Lâm thiền-sư.

Đầu-Tử:Tức Đầu-Tử Nghĩa-Thanh thiền-sư.

(19) Lý Trưởng-giả:Trưỡg-giả họ Lý hay trưởng-giả họ Trần, ám chỉ người giải kinh hay mà được chư Thiên cúng dường thức ăn.

(20) Tu-Bồ-Đề: Một vị trong thập đại đệ-tử của Phật, giải không bậc nhất. Một hôm Tôn-giả Tu-Bồ-Đề nogì thiền-định, chư Thiên mưa hoa tán thán. Tôn-giả hỏi: "Trong không mưa hoa tán thán đó là người nào?" Chư Thiên nói: "Tôi là Trời Đế-Thích". Tôn-giả nói: "Ngươi cớ chi tán thán?" Đáp: "Tôi trọng Tôn-giả khéo nói Kinh Bát-Nhã". Hỏi: Ta chưa từng nói một chữ trong kinh Bát-Nhã, tại sao ngươi tán thán?" Đế-Thích thưa: "Tôn-giả không nói, tôi cũng không nghe. Không nói không nghe, là chân Bát-Nhã".

(21) Đạt-Ma:Tức Bồ-Đề Đạt-Ma. Tổ thứ 28 Thiền-Tông ở Ấn-Độ, đệ nhất Tổ ở Trung-Quốc. Ngài sang Trung-Quốc thời đại Nam-Bắc triều, ở chùa Thiếu-Lâm. Khi mất táng ở núi Hùng-Nhĩ. Theo truyền thuyết nói."Có sứ-giả Trung-Quốc đi sứ Ấn-Độ, trên đường về, gặp Đạt-Ma chỉ đeo một chiếc dép, đang trở về Ấn-Độ. Khi về báo với vua Lương, vua sai đào mộ Đạt-Ma xem, thấy trong mộ chỉ có một chiếc dép".

(22) Phổ-Hóa:Tức Phổ-Hóa hòa-thượng ở Trấn Châu, đời Đường, đệ tử của Bàn-Sơn Bảo-Tích thiền-sư, thường giúp Lâm-Tế Nghĩa-Huyền thiền-su hoằng hóa. Bình thường khi vào chợ, ngài rung chuông và nói: "Đầu sáng lại xua đầu sáng, đầu tối lại xua đầu tối, xua gió xoáy bốn phương tám hướng lại, xua cả hư không lại".

(23) La-Hán: Tức La-Hán Quế Thâm, người Thương-Sơn, đời Đường, phái Thanh-Nguyên. Ngưỡng-Sơn: Tức Ngưỡng-Sơn Tuệ-Tịch, đắc pháp ở Qui-Sơn Linh-Hựu thiền-sư.

(24) Nhạc-Đế: Tức thần chúa-tể núi Đông-Nhạc Thái-Sơn. Tư-Đại thiền sư: Tức Tuệ-Tư đại-sư, hiệu là Tư-Đại hòa thượng. Tư thiền-sư còn gọi là Nam-Nhạc Tư-Đại thiền-sư.

(25) Kính-Sơn: Tức Vô-Chuẩn sư-phạm, tông Lâm-Tế, tham vấn Tú-Phong thiền-sư, vâng chiếu chỉ ở chùa Kính-Sơn, được ban hiệu: "Phật-Giám Thiền-Sư".

(26) Tuyết-Phong:Tức Tuyết-Phong Nghĩa-Tồn, hệ Thanh-Nguyên đời Đường, pháp tư của Đức-Sơn Tuyên-Giám. Người gỗ mở rừng: Dụ xa lìa được suy nghĩ phân biệt.

(27) Cáo đồng: Theo công-án Bách-Trượng Dã-hồ - "Mỗi khi ngài Bách-Trượng thượng đường, thường có một lão tăng đến nghe pháp, rồi theo chúng giải tán. Một hôm không đi, Bách-Thượng hỏi: Đứng đó là ai? Lão tăng thưa: Tôi từ thời Phật Ca-Diếp đời quá khứ, thường trụ ở núi này, có một học nhân hỏi: "Người đại tu-hành, lại phải rơi vào nhân quả chăng?" Tôi đáp: "Chẳng rơi vào nhân quả". Do đó tôi bị đọa làm thân cáo đả 500 kiếp. Nay xin hòa-thượng thay cho một chuyễn ngữ". Bách-Trượng nói: "Chẳng mờ nhân quả" (bất muội nhân quả). "Lão tăng nghe nói xong đại ngộ".

(28) Ốc vặn hộ kinh Kim-Cương:Theo điển, kinh Kim-Cương bị rơi xuống nước, cả bầy ốc xúm lại mà đỡ bộ kinh lên cạn.

(29)Mười ngàn cá: Theo điển, mười ngàn con cá do nghe kinh, mà kiếp sau thác sinh làm vua.

(30) Năm trăm dơi: Tây-vực ký chép: Bờ Nam-Hải có một cây khô, có 500 con dơi ở trong hốc cây, vì ham nghe người đọc kinh, bị lửa đốt nóng mà không hay, nên bị cháy cả, được hóa kiếp thành người, bỏ nhà học đạo, đều thành Bồ-Tát.

(31) Trăn nghe sám: Vợ vua Lương-Võ-Đế, vì ác nghiệt, chết phải đọa làm kiếp trăn, báo mộng cho vua tụng kinh sám hối, được thác sinh lên trời.

(32) Rồng nghe kinh: Theo điển, Bồ-Tát Văn-Thù giảng kinh cho bầy rồng nghe, mà đều giác ngộ.

(33) Đại ẩn, tiểu ẩn: Đại ẩn, ẩn dật nơi chợ búa. Tiểu ẩn, ẩn dật nơi núi rừng.

(34) Tam giáo: Phật-Giáo, Nho-Giáo, Lão-Giáo.

(35) Ngưng nói hướng thượng tam huyền: Tức hãy ngưng nói con đường hướng thượng, nghĩa là hướng thượng tới chỗ cùng cực, thời cần phải một bước nữa hướng hạ để hóa độ, nên phải cần rõ một bước sau chót (yếu liễu mạt hậu nhất trước).

Tam huyền: Tức tam cú, tam huyền, tam yếu.

Tam cú (ba câu): Tăng hỏi Lâm-Tế thiền-sư: Thế nào là câu thứ 1? Sư đáp:

"Tam yến ấn khai chu điểm trắc,

Vị dung nghĩ nghị chủ tân phân".

(Nói về mặt thật tướng của vô vị chân nhân).

Tăng hỏi: Thế nào là câu thứ 2? - Sư đáp:

"Diệu giải khởi dung vô trước vấn,

Au hòa tranh phụ tiệt lưu cơ".

(Nói về mặt biểu hiện của vô vị chân nhân).

Tăng hỏi: Thế nào là câu thứ 3? - Sư đáp:

"Khán thủ băng đầu lộng ổi lỗi,

Trừu khiên đô lai lý hữu nhân".

(Nói về phương diện hành vi của vô vị chân nhân).

Tam huyền, tam yếu: Trong một câu có đủ tam huyền môn. Trong một huyền môn có đủ tam yếu. Có quyền, có thật. Vậy danh từ tam huyền, tam yếu không chỉ rõ số mục nhất định là gì? Có thể số 1 là "có", số 2 là "không", số 3 là chẳng phải "có, không".

Đó là một quá trình tư-duy rất thiết-yếu và huyền diệu.

(36) Một bước sau chót - (Mạt hậu nhất trước). - Mạt hậu có nghĩa là cuối cùng, chí cực, nghĩa cùng cực của chí đạo. Nhất trước nghĩa là một bước đi, một nước cờ, hay một câu. Vậy một bước sau chót có nghĩa là một bước, một câu cùng cực của Phật-đạo.

(37) Hay câu này diễn tả về diệu thú hiện thành của chân-như pháp-tánh. Cũng như câu: "Sơn thị sơn, thủy thị thủy".

---o0o---

Vi tính: Việt Dũng

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/06/2015(Xem: 9086)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8086)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12065)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 30982)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 12926)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
23/06/2015(Xem: 12203)
Hơn hai mươi năm trước, khi đọc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nói về tiếng chuông Chùa Hàn San ở Tô Châu bên Trung Hoa, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao thơ Đường có không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác, vậy mà bài thơ chỉ bốn câu này lại gây ra bao nhiêu cuộc bút đàm tốn bao nhiêu giấy mực. Hay tại vì ngôi Chùa ở bến Cô Tô này đã quá nổi tiếng chăng? Nhưng đã ngờ thì phải cố mày mò tìm cho ra lẽ. Tôi tìm đọc thêm những câu chuyện chung quanh quả Đại hồng chung và tiếng chuông Hàn San. Nhiều huyền thoại đọc thật thú vị nhưng sao thấy nó cứ thực thực hư hư! Trong số ấy có một câu chuyện nói rằng, tiếng chuông chùa Hàn San có thể ngân vang rất xa, xa
21/06/2015(Xem: 7224)
Văn phòng Chính phủ Tây Tạng lưu vong, Dharamsala đưa tin – Hội nghị Tôn giáo lần thứ 12 của bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng đã diễn ra vào các ngày 18-20/06/2015 tại Dharamsala miền bắc của bang Himachal Pradesh, Tây Bắc của Ấn Độ.
21/06/2015(Xem: 9518)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc. Một niệm tức là một móng tâm, một ý nghĩ khởi sinh từ tâm. Điều này cho thấy hai ý nghĩa: làn sóng vi ba khởi sinh từ tâm dù vô hình vô tướng vẫn có thể lan xa khắp ba cõi, và qua đó, ảnh hưởng của một niệm có thể bao trùm cả cõi không gian rộng lớn vô cùng. Quan điểm này có thể nhìn thấy rõ nhất trong thế giới truyền thông ngày nay. Chỉ trong chớp mắt, trong một cái nhấp tay hay cái bấm tay trên máy điện toán hay điện thoại cầm tay thì một bản tin, một sự kiện, một hình ảnh có thể đi khắp thế giới và ảnh hưởng đến hàng tỉ người trong “ngôi làng toàn cầu.”[1]
20/06/2015(Xem: 14554)
Bài thơ đầu anh viết tặng em Là bài thơ anh kể về đôi dép Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết Những vật tầm thường cũng biến thành thơ
18/06/2015(Xem: 6446)
Hãy Lắng Tâm Cảm Nhận Này bạn, bạn đi đâu đấy, đứng lại đây với tôi một phút, chỉ một phút thôi!!! Bạn hãy cùng tôi quan sát những người đi đường kia xem. Bạn có thấy là họ đang hối hả lao về phía trước không? Đang ở trong nhà thì họ lao ra đường, đang ở đường thì họ vội vã phóng về nhà. Nhìn họ chẳng có chút bình an nào cả, khuôn mặt ai cũng căng như dây đàn. Họ vội vã đi, vội vã làm, vội vã nói, vội vã ăn, ngay cả đi chơi cũng vội vã. Họ đã đánh mất đi khả năng sống thư thái, an nhàn. Họ không làm chủ được cuộc đời của mình, họ bị cuộc đời rượt đuổi. Nếu họ không biết dừng lại thì họ sẽ phải hối hả như vậy suốt cuộc đời. Bạn cứ thử nghĩ mà xem, làm sao mà người ta có thể bình an hạnh phúc khi trong tâm lúc nào cũng đầy ắp những toan tính, lo âu và đôi chân thì cứ lao về phía trước (mà không biết lao về đâu)? Và bạn biết không, nếu có ai đó đứng bên kia đường nhìn về phía bạn thì thấy chính bạn cũng nằm trong cái đám đông hỗn l
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]