Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II.

11/03/201104:02(Xem: 9353)
II.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG BA: MỘT ĐỘNG PHÙ THỦY

II.

Ít lâu sau khi chúng tôi đến định cư tại ngôi nhà ở đường Girgaum, một giai thoại xảy ra và về sau bà Blavatsky đã viết lại thành một chuyện rất ly kỳ trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn Độ”.

Tôi chỉ trình bày ở đây một cách đơn giản, ngắn gọn những sự việc đã xảy ra, và độc giả sẽ thấy bằng cách nào bộ óc tưởng tượng dồi dào phong phú của bà đã biến đổi chúng hoàn toàn khác hẳn, từ một chuyện rất thông thường bà đã tạo thành một chuyện phiêu lưu kỳ diệu đầy tính chất rùng rợn quái đản.

Một buổi chiều nọ, chúng tôi đang ngồi trong nhà thì nghe có tiếng trống nhỏ vang dội bên tai làm cho tôi chú ý. Tiếng trống vẫn tiếp tục kéo dài lặp mãi một kiểu độc âm, buồn tẻ, nhàm chán chứ không theo một nhạc điệu nào. Chúng tôi sai một người giúp việc đi thăm dò, và khi trở về anh ta cho biết rằng đó là tiếng trống ở một nhà láng giềng, báo hiệu rằng một “bà bóng”, vốn là cốt của một vị “nữ thánh”, sắp sửa lên đồng và trả lời những câu hỏi về những vấn đề họa phước của các tín chủ.

Ý muốn chứng kiến một màn lên đồng hấp dẫn lạ kỳ đã thúc đẩy chúng tôi tìm đến nơi để xem việc gì xảy ra. Thế là chúng tôi đến nhà bà bóng. Trong một gian nhà tranh vách đất nhỏ hẹp, chúng tôi thấy độ ba, bốn mươi người bản xứ thuộc giai cấp nghèo hèn đang đứng vòng quanh, có vài ngọn đèn dầu dừa để kê sát vách, và ngồi xếp bằng ngay chính giữa nền đất là một người đàn bà trông có vẻ man dại, đầu bỏ tóc xõa, thân mình lắc lư từ bên nọ qua bên kia, và xoay đầu đảo vòng tròn làm cho bộ tóc dài cũng cuốn xoay vòng quanh mình.

Độ một lát, có một trẻ từ cửa sau bước vào, cầm một cái đĩa bàn tròn trên có vài miếng long não đang cháy, vài nhúm bột son đỏ và mấy lá cây xanh. Đứa trẻ đưa cái đĩa lại gần mặt bà bóng, bà này cúi mặt xuống chất long não bốc khói, vừa hít vào từng hơi dài vừa thốt ra những tiếng rên khoái trá.

Sau đó một lúc, bà nhảy dựng người lên, giật lấy cái đĩa bàn, cầm đưa qua bên mặt, bên trái, đầu lại xoay tròn như trước, và với bàn chân nhúnnhảy theo nhịp trống, bà đi quanh khắp phòng và nhìn thẳng vào gương mặt khiếp sợ của những người chung quanh.

Sau khi đã đi quanh khắp phòng như vậy nhiều lần, thình lình bà bóng lao mình vút đến trước mặt một phụ nữ trong đám đông, phóng cái đĩa bàn về phía người ấy, và nói với cô ta vài câu bằng tiếng thổ ngữ Marathi, mà lẽ tất nhiên là chúng tôi không hiểu, nhưng dường như có liên quan đến việc riêng của bà kia. Dù đó là việc gì, ảnh hưởng của câu nói ấy đã hiển hiện ngay tức khắc, vì người phụ nữ ấy bật ngửa người và thụt lui lại một bước, gương mặt lộ vẻ kinh hoàng, và đưa hai tay nắm chặt về phía bà bóng, dường như trong cơn xúc động sâu xa.

Cũng một sự việc tương tự được tái diễn với nhiều người khác trong số cử tọa. Sau đó nhà nữ linh thị đi xoay vòng vào giữa gian phòng, vẫn tiếp tục xoay vòng sang bên nọ bên kia trong một lúc, thốt lên vài âm thanh nghe dường như một câu thần chú, rồi chạy thoát ra khỏi phòng qua cửa sau.

Sau vài phút bà ấy trở lại, với bộ tóc ướt sũng nhỏ giọt, lại để rơi mình xuống đất, đầu lại đảo quay mòng mòng như trước, lại nhận cái khay đựng long não đốt cháy, và tái diễn cảnh lao vút mình vào người đứng xem để nói với họ những gì họ muốn biết. Nhưng lần này, giọng nói của nhà tiên tri hơi khác một chút và những động tác của bà có vẻ nhẹ nhàng hơn.

Chúng tôi được cho biết rằng đó là vì đã có một nữ thánh khác nhập vào khi bà bóng ngâm đầu vào một chậu nước đặt sẵn ở ngoài cửa.

Tính cách mới lạ của sự việc này không bao lâu đã trở thành nhàm chán đối với chúng tôi, và chúng tôi quay bước trở về nhà.

Câu chuyện chỉ có thế thôi, không hơn không kém. Đó là những sự kiện đơn giản, và không có gì khác lạ hơn nữa. Thế nhưng, nếu độc giả mở cuốn “Động thẳm rừng già của Ấn Độ”, ở chương “Một động phù thủy”, thì sẽ thấy bà Blavatsky làm cho nó biến chất như thế nào. Thay vì câu chuyện xảy ra trong một căn nhà lá tồi tàn ở một xóm bình dân lao động của thành phố Bombay, với một số khán giả gồm toàn những người lao công lam lũ bần hàn, chúng tôi lại được bà mô tả là ngồi trên lưng voi, đi trên con đường mòn dưới ánh đuốc bập bùng mờ ảo, xuyên qua một khu rừng rậm, ở độ cao hơn 600 mét trên dãy núi Vindhya. Bà viết:

“Giữa cơn im lặng thâm trầm, chỉ nghe có tiếng chân voi bước đều đặn và nghiền nát sỏi đá trên đường núi gập ghềnh; thỉnh thoảng, chợt nghe có những tiếng thì thầm quái đản và những âm thanh lạ lùng huyền bí. Đến một chỗ nọ, chúng tôi cho voi quỳ xuống để chúng tôi xuống đất và đi bộ xuyên qua những bụi cây xương rồng rậm rạp, gai đâm đau nhói!

“Chúng tôi gồm một đoàn ba mươi người, kể cả những phu cầm đuốc. Ông Đại tá (tức là tôi) ra lệnh cho tất cả những khẩu súng trường và súng ngắn đều phải lắp đạn sẵn sàng để sửa soạn vượt qua truông núi.

“Sau khi đã bỏ lại phần lớn y phục trên những cành gai nhọn của bụi cây lê rừng, trèo lên một ngọn đồi, và vượt qua một khe núi khác nữa, chúng tôi đến nơi động phủ của một vị nữ phù thủy mệnh danh là “Bà cốt của Ấn Độ”. Bà sống một cuộc đời chân tu thánh thiện và là một nhà tiên tri xuất sắc. Động phủ của bà nằm trong hang núi, trong một ngôi đền cổ hoang tàn xây bằng đá ong đã loang lổ nhiều nơi, nơi cư trú của bà ở trong một đường hầm. Tại đây, người ta tin rằng bà đã sống đến ba trăm tuổi!

“Khoảnh đất vuông vức phía trước mặt ngôi đền được soi sáng bằng một ngọn lửa trại khổng lồ; ở giữa sân có một đám thổ dân miền núi trần truồng nước da đen sậm giống như những thể tinh đang nhảy múa một vũ khúc ếm quỷ theo nhịp trống cổ và trống cơm.

“Lúc đó, một vị lão trượng có chòm râu bạc nhảy ra và xoay tít thân mình đi theo vòng tròn chung quanh sân, hai cánh tay duỗi thẳng như hai cánh và nhe ra hàm răng nhọn như răng chó sói. Thân mình ông cứ xoay tít mãi cho đến khi ngã quị xuống đất, bất tỉnh nhân sự.

“Thình lình, vị nữ phù thủy xuất hiện, từ đâu và bằng cách nào cũng không ai biết. Bà có thân hình cao lêu khêu, gầy đét như bộ xương. Nơi bờ vai xương xẩu của bà có treo lủng lẳng một cái xương sọ nhỏ bé của trẻ con đã chết. Đôi mắt sâu hoắm, phóng ra những tia lửa đỏ từ cái liếc nhìn sắc như dao đâm xuyên vào mắt bạn, làm cho bạn phải sởn ốc cùng mình. Bạn bắt đầu cảm thấy óc mình tê liệt, tinh thần bấn loạn không còn suy tư sáng suốt và máu bạn đông đặc lại trong huyết quản!

“Bà phù thủy đứng yên không cử động trong giây lát, một tay cầm cái đĩa đựng long não đốt cháy, tay kia cầm một nắm gạo. Bà giống như một pho tượng tạc trên đá, cái cổ nhăn nheo đeo ba vòng tiền vàng cổ xưa, đầu quấn một con rắn bằng vàng khoanh tròn. Thân hình dị dạng của bà bao phủ bằng một lớp áo vải mịn màu vàng nghệ...”

Tiếp theo đó là sự mô tả cơn nhập đồng của bà phù thủy, với những cử chỉ giống như người bị chứng động kinh, phong giật; một màn nhảy múa xoay tít thân mình như một chiếc lá vàng trong cơn gió lốc; cái nhìn rùng rợn của đôi mắt sắc như dao; những cơn múa may quay cuồng, những bước nhảy dựng chồm người lên; và những động tác man dại rừng rú khác. Rồi đến những màn thay đổi các “giá đàn”: thần thánh luân phiên xuất nhập xác bà bóng, tất cả là bảy vị; những màn phát ngôn tiên tri họa phước; một vũ điệu kỳ quái với cái bóng của chính bà phù thủy; những màn đập đầu lên những bực đá tam cấp phát ra tiếng động nghe đến rợn người, vân vân và vân vân...

Sự diễn tả cảnh tượng động phù thủy chiếm trọn hai mươi trang giấy với một bút pháp điêu luyện làm cho người đọc say mê thích thú, cơ hồ như chính họ được đưa vào tận chốn rừng thiêng bí ẩn để chứng kiến bao nhiêu sự việc quái đản, dị kỳ.

Một trí óc có thể làm được việc kỳ diệu như vậy, hẳn phải là một khối óc đầy tài năng. Hơn nữa, điều mà bà đã làm trong câu chuyện này, bà cũng đã làm trong toàn bộ cuốn sách: một số sự việc giản dị, tối thiểu trong mỗi trường hợp cũng đủ để cho bà chế biến thành một chuyện ly kỳ huyền bí chứa đựng nhiều chi tiết hấp dẫn đến độ độc đáo, thần tình.

(Những chuyện phiêu lưu du ký của bà Blavatsky viết ở Ấn Độ, trước hết được viết bằng tiếng Nga để gửi đăng từng kỳ hạn hằng tuần trên tạp chí “Russky Vyestnick”, tờ tạp chí lớn nhất ở Moskowa; về sau mới được dịch sang Anh ngữ và sưu tập lại để in thành sách nhan đề “Caves and jungles of Hindustan” (Động thẳm rừng già của Ấn Độ).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/02/2014(Xem: 5648)
1- Theo truyền thống Phật giáo, hành hương là nghi thức thắp hương đi nhiễu chung quanh tháp và điện Phật và cũng chỉ việc thắp hương lễ bái trước tượng Phật, Bồ tát... Đây là cách hiểu nguyên ủy của từ “hành hương”, còn về sau này, nội hàm của “hành hương” mở rộng hơn nhiều, thậm chí đến nay hành hương đôi khi được đánh đồng với du lịch văn hóa, nhất là các tuyến du lịch tham quan các di tích lịch sử tôn giáo - tín ngưỡng.
08/02/2014(Xem: 5592)
Tôi đi thăm Yên Tử thuở núi rừng còn hoang vu. Bồi hồi, xúc động. Những cội tùng già cỗi cằn, khô gầy ngạo nghễ giữa thời gian và năm tháng. Ồ, bên này là rừng trúc và bên kia là triền đá dựng
23/01/2014(Xem: 6264)
Nơi này được ưu đãi với hệ thống cây xanh, tấp nập khách du lịch - cả trong và ngoài nước - suốt cả năm, nhưng đặc biệt là trong những tháng lạnh, giữa tháng 10 và tháng 4. Ước tính gần hai triệu khách du lịch ghé thăm Câu Thi Na mỗi năm.
13/01/2014(Xem: 6976)
Tham Dự Khánh Thành “Hạ Phẩm Liên Hoa” Chùa Cực Lạc Và Hành Hương Tây Tạng, Tứ Đại Danh Sơn Trung Hoa 2014. 4/11/2014. Khởi hành đi Bangkok từ Âu châu/Mỹ châu/VN 5/11/2014. Đến Bangkok, chuyển chuyến bay đi Chiangmai. Xe đưa về chùa Cực Lạc. 6-9/11/2014. Khóa tu tại chùa Cực Lạc và Lễ khánh thành “Hạ Phẩm Liên Hoa”. 10/11/2014. Đáp máy bay đi Bangkok, và đổi chuyến bay đi Thành Đô, Tứ Xuyên. Nghỉ lại khách sạn. 11/11/2014. Đáp máy bay đến Lhasa, thủ đô Tây Tạng. Nằm trên độ cao 3650m cách mặt biển, Lhasa nổi tiếng có một chiều dài lịch sử gắn liền với tôn giáo qua các đền đài, cung điện Dalai Lama và chùa viện linh thiêng với hình ảnh các Lama tu hành suốt ngày đêm. Xe đưa về khách sạn để nghỉ ngơi và quen dần với độ cao.
12/01/2014(Xem: 5759)
Hành hương, hai chữ yêu quý mà người con Phật nào cũng mơ ước được đặt chân lên vùng đất có thắng tích của Phật. Đặc biệt lần này được sang tận Miến Điện để chiêm bái các Chùa Vàng và đến nơi thờ Xá lợi tóc của Đức Phật, đầy đủ 8 sợi mà Ngài đã trao tặng cho hai người thương gia Miến đầu tiên sang Ấn Độ, cầm mang về nước để làm quà lưu niệm.
17/09/2013(Xem: 9345)
Cuối cùng ngày mong đợi cũng đến: Hành hương Tích Lan 02.07.2011 - 14.07.2011. Từ Thụy Sĩ xa xôi, một mình lẻ loi như cánh chim lạc đàn, tôi tìm về tổ ấm nhập đàn cùng thầy, bạn, những người quen và những người chưa quen ở Đức. Một chuyến đi xa, hành hương đến một nước xa lạ chưa hề nghĩ có ngày đặt chân tới, tôi háo hức như đứa trẻ sắp được mặc áo mới, hay cô dâu sắp về nhà chồng. Chuyến bay cất cánh từ phi trường Frankfurt Đức quốc lúc 22.40 thuận lợi cho tôi đủ nhân duyên để tham dự chuyến hành hương này.
02/07/2013(Xem: 4635)
Bạn rất có thể đã nghe bài thơ này: ...Em không nghe rừng thu, Lá thu kêu xào xạc, Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên là vàng khô? Không có cảnh nào thơ mộng hơn hình ảnh con nai đi giữa rừng lá vàng trong không gian yên tĩnh để chỉ nghe tiếng lá vỡ bởi những bước chân nhẹ nhàng của loài thú hiền lành đang được thi sĩ Lưu Trọng Lưu ngắm nghía rồi tạo nên những vần thơ trữ tình để đời qua bài Tiếng Thu.
27/06/2013(Xem: 4652)
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Đạo hữu An Hậu Tony Thạch hướng dẫn
27/06/2013(Xem: 4628)
Hành Hương Phật tích Ấn Độ 2010 do HT Thích Bảo Lạc (Chùa Pháp Bảo, Sydney, Úc Châu) hướng dẫn từ ngày 2 đến 20/11/2010
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]