Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tứ Động Tâm trên thế giới của “nhị nguyên”

21/06/201316:55(Xem: 5386)
Tứ Động Tâm trên thế giới của “nhị nguyên”

bandroll2

Tứ Động Tâm
trên thế giới của “nhị nguyên”


“Tình chỉ đẹp khi còn dang dở.”
Đời hết vui khi đã vẹn câu thề.”

Tôi đọc hai câu thơ của thi sĩ Xuân Diệu trên microphone để bắt đầu chia sẻ cảm tưởng của mình trên xe Bus 1. Ngày hôm đó, tôi còn nhớ rất rõ nơi tâm tư một rung cảm tự nhiên, quyến luyến, vì chỉ còn có vài ngày nữa là chia tay, ngàn trùng cách biệt nếu không muốn nói là “sinh ly tử biệt”.Chuyến hành hương Chiêm Bái Phật Tích do Sư Phụ Nguyên Tạng hướng dẫn sắp kết thúc, để lại sau lưng những kỷ niệm sẽ không bao giờ quên của người con Phật. Đúng vậy rồi, phải không các đạo hữu mến yêu của tôi ơi! Cuộc vui nào rồi cũng sẽ tàn, cuộc xum họp nào cũng có lúc phải chia tay, đó là cái nguyên lý đối đãi “nhị nguyên” mà thường ngày chúng tôi vẫn nghe Quý Thầy, Quý Sư Cô giảng về giáo lý của Đức Thế Tôn: ”Có thương thì phải có ghét, có hợp thì phải có tan…. Những gì đã một lần đi qua tâm, thì sẽ không bao giờ mất, nó còn mãi ở đó. Hạt mầm này nếu gặp duyên sẽ mọc rễ, thành cây, ra hoa kết trái, chờ ngày gặt hái.” Những hạt giống Bồ Đề gieo trên mảnh đất tâm tư của hơn chín mươi thành viên trong hai mươi mấy ngày chiêm bái đương nhiên là nhiều lắm…nó đang mọc rễ cho cây Từ Bi bắt đầu xanh lá, thể hiện bằng sự giúp đỡ lẫn nhau, bằng những chia sẻ vật chất, bằng những công hạnh cúng dường, bố thí, với tình thương yêu không mong đền đáp, những mong có buổi tao phùng dù chưa phải là ngày cuối cùng của một chuyến hành hướng về thăm xứ Phật.

IMG_0639


Bình minh trên sông Hằng

Tôi nhớ mãi buổi sáng trên bến sông Hằng, khi người phật tử cuối cùng đã rời thuyền bỏ bến, ông lái đò đứng ngớ ngẩn trông theo. Cảnh biệt ly của người ra đi không trở lại sao thấy xót xa, vời vợi. Có phải chăng trên thế giới Ta Bà này mọi sự gặp gỡ và ra đi đều không phải vô tình mà đã có định trước? nếu ai đã từng học giáo lý nhân quả nghiệp báo rồi, thì câu hỏi kia bị xem là thừa, như lời dạy của Thầy Trưởng Đoàn, nhưng trong lòng tôi sao cứ vương vấn một điều gì đó. Không mong cầu thì đâu tìm đến, không mời gọi thì ai chịu ghé qua, không đuổi xua thì người ta đâu ra đi mà không hẹn ngày tái ngộ! Nguyên lý của sự đối đãi nhị nguyên này tôi học từ giáo lý nhà Phật đã hơn một năm nay nhưng sao đứng bên sông Hằng mới thấy thấm thía. Bất giác tôi cảm hứng viết ra tám câu thơ ngay tối hôm đó và đã cao hứng chia sẻ với các thành viên thân yêu một lần trên xe Bus 1.

Cảm niệm nguyên lý nhị nguyên nơi bến sông Hằng

Khách đến thuyền đưa, khách đến nhiều
Thuyền về đón khách, đón thương yêu
Khách mong thuyền lại, trao tình thắm
Bến nhộn thuyền đông, khách dập dìu

Thuyền đi để lại khách mong chờ
Bến vắng thuyền kia khách dần thưa
Thuyền không về bến, vì vắng khách
Khách thiếu thuyền đưa, khách hững hờ.

Thiệt là ngao ngán làm sao! Cứ phải có đón mời thì mới ghé lại, nếu hững hờ thì người ta lại bỏ đi mất. Có cái nhân duyên đưa đẩy ở mọi không gian trên từng sát na của đời sống động vật hữu tình và vô tình đang vận hành đưa chúng sinh vào bánh xe luân hồi xoay mãi. Kết quả cuối cùng vẫn là cái đau khổ của sinh lão bệnh tử, của cảnh sinh ly tử biệt…..Của cái lưu luyến hôm nay, của những người trên xe Bus 1 này đây! Đúng rồi, cho nên Đức Phật mới phải xuống trần gian để kéo chúng ta ra, và ngày nay tôi mới có duyên theo Sư Phụ và phái đoàn ngược xuôi vất vả. Đi từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, thức khuya dậy sớm, từng phút giây hồi hộp để tránh đạp phải “mìn” trên những con đường gồ ghề khó đi ấy, mong nhìn tận mắt Tứ Động Tâm, nơi Đức Thế Tôn thể hiện, mang ánh sáng giải thoát đến chúng sinh đang đắm chìm trong khổ nạn mịt mờ!

Cảnh trí chỉ có Bồ Đề Đạo Tràng là hưng thịnh còn lại ba nơi thánh địa khác hầu như chỉ còn trơ những bức tường đổ nát và những đống gạch đỏ mọc rêu nằm trơ vơ cùng năm tháng. Cảm động làm sao! Sư Phụ bảo tôi: “con viết một bài cảm niệm hoặc viết một bài thơ về những Phật tích mà con đã viếng thăm, con cố gắng ghi lại cảm nhận của mình nhé.”Hummm, làm sao dám viết bài cảm niệm tri ân khi mà đã có rất nhiều bài cảm niệm đã được đăng trên net, những bài viết bởi các “trưởng lão”. Các ngài đã đặt lên ngòi bút điêu luyện nhịp nhàng như phượng múa rồng bay. Những bài cảm niệm đó đã thu lượm hết lời hoa mỹ gấm vóc của tự điển rồi. Chỉ còn những chữ “left over“ tôi đâu muốn mang vào bài viết của tôi để mà tri ân, để mà diễn tả “feeling”.

Nói đến hai chữ "left over" tôi lại nhớ tới "legend" của chữ này trên xe Bus 1. Hầu như tất cả thành viên trên Bus 1 đặt nickname tôi là "left over" từ ngày tôi kể chuyện huyền thoại của người Ấn Độ về nguồn gốc của đàn bà: Đàn bà được Thượng Đế tạo ra bằng sự nặn nhồi của các phần left over sau khi những phần này được moi ra từ thùng rác. Từ đó trở đi tôi rất có duyên với hai chữ "left over". Nhớ hôm tôi mang gói bánh chiên lên cho chú Tâm Quảng, chú đã mở lòng "từ bi" từ chối không ăn bánh chiên của bà chị Tâm Quả gởi cho vì có lẽ chú nhìn thấy tôi có "sinh tâm", chú từ chối khéo nói là bị "ho" không ăn những thứ có dầu mở. Không biết ai trên xe đã nhắc tôi bảo là "lấy độc trị độc" …Sau nhiều lần năn nỉ nhưng chú vẫn không chịu ăn. Hôm đó, tôi cũng bị "ho" nhưng vì trong lòng có được mấy hạt Bồ Đềnên đã hoan hỷ mang gói bánh đi mời các thành viên trên xe, những ai bị "ho" thì nên ăn bánh chiên để trị "ho". Cuối cùng phần bánh "left over" đã có duyên với tôi, chỉ có duyên gặp gỡ thôi chứ không có duyên vô bụng vì khi trở lại chỗ ngồi thì còn cái bao không. Tôi đoán hôm đó chắc chị Diệu An cũng "ho" nên mới "lấy độc trị độc", nhưng chị đã đính chính trong một email bảo rằng đã mang hai chiếc bánh đi cúng dường Cụ Tâm Thái và Sư Cô để cho tôi được thêm phước. Chắc tại không được thưởng thức bánh chiên "left over" hôm đó nên bây giờ dù đã hơn hai tuần lễ trôi qua tôi vẫn còn bị "ho"!

IMG_9567


Lưu dấu kỷ niệm xe bus 01 tại Phật Đài Thích Ca Lộ Thiên (Đài Trung, Đài Loan)

Những kỷ niệm buồn vui gieo vào lòng nhau bao nhiêu vương vấn, mang cho người ta những mong cầu, mong cầu buổi tao phùng tuy ngày vui chưa hết. Đó là cái đối đãi nhị nguyên rõ rệt và là yếu tố đưa đến luân hồi mà chúng ta học Phật đều nhìn thấy rõ. Dù biết vậy, nhưng có mấy ai tránh khỏi “Ái”, “Thủ”, “Hữu” đâu? Và tôi đang ngồi chốn này đây, tỉ tê viết dòng tâm sự với ngôn ngữ vụng về kể cho ai nghe nỗi lòng đang ngổn ngang trăm mối, không còn lại những danh từ hoa mỹ để tôi gởi lời tri ân đến Sư Phụ và hai Sư Cô cũng như để chia sẻ với các bạn đạo những hân hoan cho bao ngày “lia thia quen chậu”. Xin hướng tâm hồn về Tứ Động Tâm với dòng lưu bút của con với những ngày về thăm xứ Phật.

Vịnh Lâm Tỳ Ni

Bóng nước in tường gạch đỏ son

Nghìn năm mặt nước vẫn như gương

Thâu cả đất trời cùng vũ trụ

Mang về bến giác một tình thương.

Bảy bước chân đi bảy đóa hoa

Trên trời, dưới đất, chỉ mình “TA“

Có-không, không-có, đều không có

Vạn vật, vì ta mới có “TA”.
DSCF2378



Toàn cảnh vườn Lâm Tì Ni ngày nay

Thái Tử Siddhartha bên dòng sông Anoma

Đây nắm tóc, gởi về dâng Vương Phụ

Dứt đoạn đời cung điện gấm hoa xưa

Con ra đi những mong tìm chân lý

Diệt tử, sinh, lão, bệnh, khổ biệt ly

Đầy tâm tình gởi về em chốn ấy

Nuôi con thơ nơi cung điện tóc hoa cài

Đừng mong mỏi, ta đi tìm chân lý

Cứu em cùng con dại, một ngày mai

Một ngày mai, một ngày không xa lắm

Ánh đạo nhiệm mầu soi nẽo trầm luân

Cứu muôn loài đang lầm than đau khổ

Ta sẽ về cho ánh sáng mãi bình minh

Vịnh Bodhgaya - Nơi Đức Thế Tôn Thành Đạo

Ánh sáng chan hòa khắp mọi nơi

Đây bờ bến giác cảnh vui tươi

Bố Đề cổ thụ luôn xanh lá

Vạn vật cười đùa trong nắng mai

Giác Ngộ tháp kia cao vút cao

Tấm lòng Từ Phụ, ghi ơn sâu

Bốn chín ngày đêm trong thiền định

Đạt quả Bồ Đề tối thượng cao

Sạch hết âu lo, sạch nợ duyên

Có cũng là không, chẳng nhị nguyên

Chỉ có chân như, tâm phẳng lặng

Thoát vòng sinh tử, hết lụy phiền

IMG_1782


Bảo Tháp Đại Giác Ngộ vào ban đêm


Vịnh Vườn Lộc Uyển

Đây Sarnath một chiều nắng ấm

Tôi trở về tìm lại dấu chân xưa

Bao ngàn năm bánh pháp luân lăn chuyển

Vẫn còn đây tháp đỏ phủ rêu mờ

IMG_1175


Diệu Nhẫn - SC Tâm Vân - SC Diệu Trang - Diệu An - Quảng Tuệ Nguyện trước Tháp Lộc Uyển

Tôi bật khóc khi nghe Thầy kể lại

Đức Thế Tôn tìm đến bạn hiền xưa

Bao ngày tháng trên đường mòn cô quạnh

Ngài tìm về chốn cũ khóm hoa xưa

Năm người bạn vẫn mỏi mòn tìm kiếm

Con đường nào sẽ đưa đến chân như

Đức Thế Tôn đã giảng bài Tứ Đế

Phép nhiệm màu hoá cảm bạn đồng tu

Từ độ ấy, thành hình ngôi Tam Bảo

Chốn vườn Nai, Bát Chánh Đạo bắt đầu

Mang chánh pháp chỉ đường người tăm tối

Ánh đạo vàng rạng tỏa khắp năm châu.

Vịnh Cậu Thi Na (Kusinagar)

Rừng sala chiều nao im tiếng gió,

Đứng rũ buồn cành là phủ màu tang.

Tiễn Đức Thế Tôn về cõi Niết Bàn

Ôi thương nhớ, Từ Phụ ơi! Giờ ly biệt!

IMG_4301


Phái đoàn tụng Kinh Di Giáo bên tôn tượng Nhập Niết Bàn

“Này A Nan, lấy cho ta miếng nước.

Dìu ta về rừng trước mặt, gốc sala.

Thân tứ đại, trả về cho tứ đại.

Đừng trách người thợ sắt tối hôm qua!”

Lạy Đức Thế Tôn, con rơi nhiều nước mắt,

Khi viết dòng cảm niệm Câu Thi Na,

Con hình như vẫn thấy Người trước mặt,

Buổi chiều nào Người dưới gốc Sala.

Theo Sư Phụ về thăm thánh tích

Con viết dòng cảm niệm Câu Thi Na!

Câu Thi Na! Câu Thi Na!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Maryland, December 15, 2008

Đệ tử Helen Quảng Tuệ Nguyện kính dâng.

IMG_8492


Diệu Nhẫn - Sư Phụ - Quảng Tuệ Nguyện
(hình chụp trước chùa của Đức Dai Lai Lama

----o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2012(Xem: 5784)
Quan Âm Cổ Tự (Gwaneumsa-觀音古寺) nằm phía Đông bắc dưới chân núi Halla (漢拏山), Ara-dong, Thành phố Jeju. Ngôi Cổ tự được thành lập vào thế kỷ thứ 10, vào triều đại Cao Ly ‘Goryeo’ (AD 918 ~ 1392). Trong những năm 1700, triều đình Joseon (Triều Tiên) tôn sùng Nho giáo và phế Phật vì thế Phật giáo vùng Jeju lâm vào Pháp nạn, các Tự viện bị phá hủy trong đó có ngôi Quan Âm Cổ Tự. Đầu thế kỷ 20, năm Nhâm Tý (1912) vị Pháp sư Tỳ Kheo ni An Phùng - Lệ Quán (安逢麗觀) mới tái tạo lại. Năm Giáp Thìn (1964), trùng tu nguy nga tráng lệ như hiện nay. Ngôi Danh lam cổ tự hùng tráng này là cơ sở thứ 23 của Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc.
19/06/2012(Xem: 2797)
Sa mạc Gobi (Trung Quốc) nổi tiếng thế giới bởi sự khắc nghiệt, xứng danh là một trong các vùng đất “khó sống” nhất trên hành tinh. Những đụn cát cao ngút, những trận bão sa mạc và nạn thổ phỉ kinh hoàng trong truyền thuyết xảy ra liên miên, cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu thương nhân khi qua đây. Nó trở thành nỗi ám ảnh lớn với rất nhiều người và không mấy ai nghĩ địa điểm này thích hợp cho sự sống. Ấy thế mà đã có một hồ “trăng lưỡi liềm” và mảnh đất thiên đường “rơi” xuống sa mạc Gobi và trở thành một trong những ốc đảo tuyệt vời nhất trên Trái đất này.
20/05/2012(Xem: 6619)
Nói đến chùa, không thể không nhắc đến Huế. Cố đô là nơi có mật độ chùa chiền thuộc loại cao nhất Việt Nam với trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Lần nào đến Huế tôi cũng đến thăm, lễ Phật và thưởng ngoạn tại ít nhất là 1 ngôi chùa.
02/03/2012(Xem: 3247)
Trên đường đến Linh Thứu sơn thuộc thành Vương Xá, nay là Rajgir, cách trường đại học Na Lan Đà khoảng 1500 m, đoàn chúng tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm ngài Huyền Trang (Huyền Trang Kỷ Niệm Đường) mặc dù ngoài trời mưa vẫn còn nặng hạt...
12/02/2012(Xem: 13622)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
11/01/2012(Xem: 8357)
Ý tưởng về một cuộc hành hương về xứ Phật là do chính Đức Phật nói ra. Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình sau khi Người từ giã trần gian. Những nơi đó là Lumbini, nơi Đức Phật đản sinh; Bodhagaya (Bồ Đề Đạo Tràng), nơi Đức Phật chứng đạt Giác Ngộ Tối Thượng; Vườn Nai ở Sarnath, nơi Đức Phật khai giảng bài Thuyết Pháp đầu tiên – Kinh Chuyển Pháp Luân; và Kusinara (Câu Thi Na), nơi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn...
28/12/2011(Xem: 3613)
Trong khi nhiều tôn giáo truyền thống khuyến khích tín đồ lên đường hành hương, như Đức Phật Thích Ca là một bậc thầy vô thượng mà tất cả Phật tử hướng về quy y và những giáo huấn của Ngài chúng ta thực hành một cách tốt nhất để đi theo, đối với chúng ta những thánh địa thiêng liêng nhất là những nơi Đức Phật đã giảng dạy và hành động vì lợi ích của chúng sinh. Trong khi chúng ta nên ngưỡng vọng và thăm viếng những nơi này, một cách truyền thống bốn thánh tích được xem như quan trọng nhất là: * Lâm tỳ ni, nơi Sĩ Đạt Ta sinh ra trong thế giới này như một người bình thường. * Đạo Tràng Giác Ngộ, nơi Sĩ Đạt Ta trở nên giác ngộ. * Lộc Uyển, nơi Ngài giảng dạy con đường đến giác ngộ, và * Câu thi na, nơi Ngài nhập niết bàn.
01/08/2011(Xem: 3574)
Từ 13/3 đến 28/3/1994, Viện Nghiên cứuPhật học Việt Nam đã tổ chức một đoàn chiêm bái các Phật tích tại Ấn Độ, gồm 19 người, do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu làm Trưởng đoàn, cố Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Phó đoàn, với Ban Thư kýgồm Hòa thượng Thích Giác Toàn và Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn. Chuyến đi được Hòa thượng Thích Chơn Thiện lúc ấy đang chuẩn bị trình luận án tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ giúp sắp xếp các việc cần thiết và đề xuất kế hoạch, lộ trình chi tiết. Sau ngày thống nhất đất nước, đây là chuyến xuất ngoại dân sự đầu tiên có tổ chức của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, mở đầu cho việc hội nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo đăng tải lại dưới đây bài tường thuật do cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu thực hiện, như một kỷ niệm để tưởng nhớ ngài.
22/07/2011(Xem: 5400)
Du khách đến Dubai sẽ được chiêm ngưỡng một tác phẩm tuyệt vời của bàn tay con người. Đó là khu vườn 65 triệu bông hoa trong khí hậu khắc nghiệt của sa mạc.
14/07/2011(Xem: 9426)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567