Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Quý Cáp qua Đà Nẵng hoài cảm

14/08/201819:53(Xem: 4528)
Trần Quý Cáp qua Đà Nẵng hoài cảm


Trần Quý Cáp qua Đà Nẵng hoài cảm

       Châu Yến Loan

 

 

Trần Quý Cáp là một trong ba lãnh đạo kiệt xuất của phong trào Duy Tân, một phong trào cách mạng rất sôi nổi của những năm đầu thế kỷ XX.

  

Tran Quy Cap

                                      

Thuở nhỏ, ông tên là Trần Nghị, sinh năm 1870 trong một gia đình nông nghiệp thuần phác, thân phụ vừa làm ruộng vừa đọc sách, quê ở thôn Thai La, làng Bất Nhị, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là xã Điện Phước huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Tuổi trẻ, Trần Nghị rất thông minh, hiếu học, năm 20 tuổi, ông đã nổi tiếng văn chương, được các bạn đồng song kính mến. Đến học với cụ Cử Lê Cung ở làng Nông Sơn, ông rất xuất sắc được cụ Đốc học Mã Sơn Trần Đình Phong nghe tiếng chọn về học ở trường Đốc Thanh Chiêm, được cấp học bổng và cho đổi tên thành Trần Quý Cáp, tự Dã Hàng, biệt tự Thích Phu, hiệu Thai Xuyên, ông là một trong sáu học sinh lỗi lạc của cụ Đốc học Mã Sơn gồm Phạm Liệu, Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Quang,  Trần Quý Cáp.

Tuy học giỏi, nhưng đường công danh rất lận đận, ông đi thi từ năm Giáp Ngọ (1894) nhưng mãi đến năm 1904 ông mới được đặc cách cho thi Hội rồi thi Đình đỗ Nhất Giáp Tiến sĩ cùng khoa với Huỳnh Thúc Kháng. Đạt được thành tích xuất sắc nhưng Trần Quý Cáp không ra làm quan để vinh thân phì gia mà dấn thân vào con đường cách mạng và trở thành một trong ba lãnh đạo của phong trào Duy Tân là Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp.

Năm 1908 ông chuyển vào Ninh Hoà làm Giáo thọ chưa được bao lâu, thì cuộc biểu tình chống sưu khất thuế nổ ra ở Quảng Nam rồi lan nhanh đến các tỉnh khác của Trung kỳ từ Phú Yên đến Hà Tĩnh. Mặc dù phong trào chưa nổi lên ở Khánh Hoà và dù không có bằng chứng cụ thể Trần Quý Cáp vẫn bị  Pháp và quan lại Nam triều bắt và xử chém một cách vội vàng.

Ông thọ hình ngày 17 tháng 5 năm Mậu Thân (1908) bên cầu Phước Thạnh, sông Cạn, tỉnh Khánh Hoà trong tư thế hiên ngang của người anh hùng thung dung tựu nghĩa.

 

Ngày 03 tháng 10 năm 1888, Pháp đã ép vua Đồng Khánh ký một đạo dụ giao ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng cho Pháp làm nhượng địa. Đà Nẵng bị tách ra khỏi Quảng Nam và đổi tên thành Tourane. Trước cái trò cướp đất diễn ra ngay ở tỉnh nhà, Trần Quý Cáp không sao ngăn được nỗi niềm đau xót, phẫn nộ nên đã sáng tác bài thơ “Đà Nẵng hoài cảm” để bày tỏ nỗi lòng của mình .

 

                    Đà Nẵng hoài cảm

                   Thử địa do hà động chiến phong ,

                   Chỉ kim đáo xứ huỷ xà tung .

                   Thuyền lâm nội phụ tam tài sắc ,

                   Xa tẩu trùng quan nhứt lộ thông .

                   Cố quốc sơn hà lân địch lý ,

                   Thuỳ gia lầu các tịch dương trung .

                   An năng tái khởi Trần Hưng Đạo ,

                   Cọng vãn Đằng giang vĩ đại công .

  

Bản dịch của một vị lão nho:

 

                   Chinh chiến vì đâu nảy họa tai ?

                   Mà nay thấy những dấu lang sài.

                   Cờ ba sắc nhoáng tàu vô cửa,

                   Xe một đường thông ải suốt dài.

                   Tiếng địch gọi hồn non nước cũ,

                   Bóng chiều chói rạng phố lầu ai ?

                   Ước chi nay có Trần Hưng Đạo,

                   Lập lại Đằng Giang trận thứ hai.

 

Bản dịch của Nguyễn Thiếu Dũng:

 

                   Đất ấy vì đâu nổi chiến tranh ?

                   Giờ đây heo rắn dẫm tan tành.

                   Tàu vào bến cảng cờ ba sắc,

                   Xe vượt đèo cao một lộ nhanh.

                   Nước cũ non sông sầu nhượng địa,

                   Nhà ai lầu gác bóng chiều hanh.

                   Làm sao sống lại Trần Hưng Đạo,

                   Cùng diễn Đằng Giang trận đại thành.

 

 phaptancong_danang

                   

                                                                         Pháp tấn công Đà Nẵng năm 1858 (nguồn Wikipedia)

 

 Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi khẩn thiết gây xốn xang lòng người :

 

                   Thử địa do hà động chiến phong ?

                   (Đất ấy vì đâu nổi chiến tranh ?)

 

Hỏi nhưng không phải để tìm câu trả lời mà chính là để oán hận, tố cáo tội ác của kẻ thù. Bởi vì, là người Việt Nam ai mà không biết thực dân Pháp đem quân đánh đánh vào Đà Nẵng, chiếm nước ta để khai thác tài nguyên, làm giàu cho nước họ khiến cho cuộc sống bình yên của người dân từ bao đời nay trong phút chốc đã tan thành tro bụi.

“Đất ấy vì đâu nổi chiến tranh ?”

Chính là do lòng tham của Pháp cũng như một số đế quốc phương Tây lúc bấy giờ, đã đua nhau xâm chiếm các nước nhược tiểu để bành trướng thế lực. Cách hỏi này khiến ta nhớ đến Đặng Trần Côn. Đầu thế kỉ XVIII , trước những cuộc chiến tranh phong kiến gây ra bao đau thương, tang tóc cho nhân dân, câu hỏi nhức nhối này cũng đã từng được ông nêu lên trong tác phẩm Chinh phụ ngâm:

 

                   " Xanh kia thăm thẳm từng trên ,

                   Vì ai gây dựng cho nên nỗi này "

                                                ( Bản dịch của Phan Huy Ích )

 

So với các nước Tây phương khác như Bồ Đào Nha, Anh, Hòa Lan, Pháp đến Đàng Trong chậm hơn nhưng lại chú ý đến Đà Nẵng hơn ai hết.

Vào năm 1737, Dumas, Toàn quyền Pháp ở  Pondichery (Ấn Độ) đã gởi về Paris một tờ trình nói về sự trù phú của hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đến năm 1740, ông lại đề nghị Giám mục Beaume đứng ra làm trung gian thương lượng với Chúa Nguyễn để mua Đà Nẵng làm căn cứ thương mãi. Nhưng đề nghị này không được thực hiện.

Ngày 30 tháng 12 năm 1817, theo lệnh của vua Louis XVIII tàu Cybèle trang bị 52 đại bác, do đại tá Hải quân Kergariou chỉ huy đã cập bến Đà Nẵng và những năm sau đó nhiều chiến thuyền Pháp đã đến Đà Nẵng với mục đích thương thuyết với triều đình Huế nhượng Đà Nẵng cho Pháp  nhưng đều bị các vua nhà Nguyễn từ chối. Sau nhiều lần thất bại về ngoại giao, Pháp không còn nhân nhượng nữa, mà quyết tâm dùng vũ lực xâm chiếm nước ta vào năm 1858 mà Đà Nẵng là cái đích đầu tiên.

Đà Nẵng là một hải cảng rộng nhất và đẹp nhất của Việt Nam, với ưu thế giao thông hàng hải và vị trí chiến lược quan trọng, Đà Nẵng có sông Hàn là sông lớn nên việc vận chuyển bằng đường thuỷ tiện lợi. Đà Nẵng còn là yết hầu của hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Nam mà Quảng Nam còn có quốc lộ 14 là con đường xuyên sơn thông lên vùng cao nguyên. Lấy được Đà Nẵng làm nhượng địa, Pháp đã nắm trọn ưu thế về miền núi lẫn miền biển để khai thác kinh tế và khống chế  về quân sự. Như vậy chiếm Đà Nẵng là một mục tiêu nằm trong kế hoạch lâu dài của chính quyền thực dân Pháp.

“ Thử địa do hà động chiến phong ?” Trần Quí Cáp hỏi cũng chính là trả lời rồi!

Trước cảnh quê hương đã thay chủ đổi ngôi, Trần Quí Cáp không khỏi đau lòng khi nhìn thấy kẻ thù nghênh ngang ra vào thành phố , tàu thuyền của chúng giương cờ tam tài tự do cập bến, đường sắt thông thương  xuyên Hải Vân :

                    " Thuyền lâm nội phụ tam tài sắc ,

                      Xa tẩu trùng quan nhứt lộ thông "

                   ( Tàu vào bến cảng cờ ba sắc ,

                      Xe vượt đèo cao một lộ nhanh )

              danang_chauyenloan

                 

                                                                              (http://forum.dng.vn/showthread.php?t=2180)

  

Hai câu thơ chỉ thuần tả cảnh, tác giả không trực tiếp nói ra nỗi căm giận của mình đối với quân thù như Nguyễn Đình Chiểu nhưng thông qua những hình ảnh ngang tàng của chúng  trên quê hương đã ngầm nói lên sự phẫn nộ của Trần Quí Cáp cũng mãnh liệt chẳng khác nào Nguyễn Đình Chiểu :

 

                   " Bữa thấy bòng bong che trắng lốp : muốn tới ăn gan ;

                     Ngày xem ống khói chạy đen sì : muốn ra cắn cổ ."

                                     ( Văn tế Nghĩa sỹ Cần Giuộc )

 

Hai câu luận bộc lộ tình cảm đau buồn của ông một cách kín đáo mà sâu sắc:

                   

                " Cố quốc sơn hà lân địch lý ,

                 Thuỳ gia lầu các tịch dương trung ."

                ( Nước cũ non sông sầu nhượng địa ,

                  Nhà ai lầu gác bóng chiều hanh.)

 

Trung kì là xứ bảo hộ nhưng dẫu sao trên danh nghĩa vẫn của triều đình Huế còn Đà Nẵng là nhượng địa thì chính thức là của Pháp rồi. Non sông nước cũ của ta đã ở trong lòng địch (địch lý). Thử hỏi ai mà chẳng đau, chẳng tiếc chứ có riêng gì Trần Quý Cáp.

 

Trong lịch sử nước ta, trận Bạch Đằng dưới sự chỉ huy của Trần Hưng Đạo năm 1288 là một chiến công hiễn hách. Chiến thắng Bạch Đằng tiêu biểu cho tinh thần chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc, là niềm tự hào vô biên của dân tộc Việt Nam. Nhưng tinh thần bảo toàn lãnh thổ đó đến đầu thế kỷ XX đã bị tiêu trầm, sĩ khí rụt rè như gà gặp cáo (Sĩ khí rụt rè gà phải cáo- Trần Tế Xương). Làm sao vực dậy “tinh thần Bạch Đằng” để dân trí bớt mê muội, đó chính là mối quan tâm đặc biệt của các chí sĩ cách mạng thời bấy giờ. Trần Quý Cáp nói:

 

                    " An năng tái khởi Trần Hưng Đạo ,

                Cọng vãn Đằng Giang vỹ đại công "

                   ( Làm sao sống lại Trần Hưng Đạo ,

                    Cùng diễn Đằng Giang trận đại thành )

 

Tức là muốn làm sống lại trang sử oai hùng của dân tộc để thức tỉnh lòng dân đang thờ ơ trước vận mệnh của đất nước.

 

Lam Giang có một đối chiếu rất hay khi cho rằng nỗi đau buồn, lo lắng của Trần Quí Cáp cũng là tâm sự u uất của vua Thành Thái:

 

                    Kỷ độ tang thương kỷ độ kinh

                    Kim triêu hồi thủ bất thăng tình!

                    Ngưu hồ dĩ định tam triều cuộc

                    Long đỗ nhưng lưu bách chiến thành.

                    Nùng lĩnh phù vân kim cổ sắc,

                    Nhĩ hà lưu thủy khốc ca thanh,

                    Cầm Hồ,đoạt sáo nhân an tại,

                    Thùy vị giang sơn tẩy bất bình?

 

Bản dịch của Nguyễn Thiếu Dũng:

 

                   Mấy độ tang thương, mấy độ rầu,

                   Đến nay ngoảnh lại cả lòng đau!

                   Còn đâu trăm trận gan rồng cọp,

                   Hổ thẹn ba triều kiếp ngựa trâu.

                   Nùng lĩnh phù vân mờ cổ sắc,

                   Nhĩ hà lưu thủy khóc ca lâu.

                   Bắt thù, đuổi giặc người đâu tá,

                   Non nước nào ai rửa hận sầu?

 

Làm sao cho nước nhà sạch bóng quân thù ?

Trần Quí Cáp đã hiến dâng cả cuộc đời của mình cho sự nghiệp "Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh "để cứu nước, tiếc thay phong trào Duy Tân sớm bị dập tắt, chí sĩ Trần Quí Cáp đã  hy sinh anh dũng khi ước vọng chưa thành .

                                                                   

                                                                                      Châu Yến Loan

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/03/2011(Xem: 3392)
Chắc hẳn ai cũng từng nghe hoặc từng quen biết một người họ Nguyễn. Trên trường quốc tế, đó là một dấu hiệu nhận diện người gốc Việt. Nhưng tại sao gần 40% người Việt lại có chung một họ Nguyễn này? Nếu căn cứ theo tỉ lệ này, cứ ba người dân Việt Nam có ít nhất một người mang họ Nguyễn. Những người mang họ Nguyễn trên toàn thế giới có khoảng 90 triệu người, tức là nhiều thứ ba sau họ Lý và họ Trương của Trung Quốc.
22/03/2011(Xem: 4943)
Cuối 1973, tuy xuất gia đã 10 năm, tương chao đã thấm tận vào máu tủy, lại chuẩn bị làm sinh viên Cao Đẳng Phật Học Hải Đức, chúng tôi đúng tuổi phải bị VNCH gọi động viên phải đi lính [ai xúi Thiệu ra lệnh TT Đạm hăm ngưng cấp hoãn dịch tu sỹ?] Chính thời điểm 1973-4 lúc ĐĐ Liễu Minh nói bài nầy, ngài 40 tuổi, trong tinh thần lên án chống lại chế độ VNCH khi họ rục rịch ban hành Luật Tổng Động Viên, không cho ai được hoãn dịch kể cả Tu sỹ PG.
06/03/2011(Xem: 35878)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
19/01/2011(Xem: 4781)
Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Ngô Gia Văn Phái
18/01/2011(Xem: 9328)
Theo dòng thời gian, Việt Nam đã có một nền sử học truyền thống với những bộ quốc sử và nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn đồ sộ như: Đại Việt sử ký; Đại Việt sử ký toàn thư; Phủ biên tạp lục; Gia Định thành thông chí; Đại Nam nhất thống chí… Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của sử học, các nhà sử học nước ta luôn đi sâu nghiên cứu toàn diện các vấn đề trong lịch sử Việt Nam. Các công trình được biên soạn trong thời gian qua đã làm phong phú thêm diện mạo nền sử học Việt Nam, góp phần truyền bá kiến thức lịch sử tới các tầng lớp nhân dân.
01/01/2011(Xem: 4412)
Hôm nay là 30-4, ngày kỷ niệm chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Năm ngoái, anh đã có một bài trò chuyện với VietnamNet. Năm nay, chúng tôi cũng mời anh tiếp tục chuyện trò như thế, không phải vì một mục tiêu chính trị nào, mà để góp phần vào việc nghiên cứu nghiêm túc các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam cũ, nghiên cứu sử hiện đại. Đề nghị anh nói về phong trào Phật giáo, tuy biết anh rất ngần ngại. Tại sao anh ngần ngại?
25/12/2010(Xem: 8046)
Phật giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN. Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người, và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
19/12/2010(Xem: 8960)
Lịch sử Việt Nam từ thời Mê Linh liệt nữ trở về trước luôn là sự khơi gợi khám phá và thách thức cho bản thân tôi. Bằng những con đường không “chiêu thức” của một kẻ viễn kiến ngôi đền sử học, tôi đã tự tìm hiểu khoảng thời gian kia bằng dăm bài viết, có tham khảo một số sách vở và thư tịch cổ Việt Nam cũng như Trung Quốc. Khi hệ thống những bài viết này [1] hoàn thành, cũng là lúc nhận thức của tôi về thời bán sử Việt Nam bước qua một trang mới. Những nhầm lẫn và mâu thuẫn lộ liễu sẽ được thanh lọc, mạch sử đơn lẻ được tổng hợp lại để thành trang viết mới dài hơi hơn, cụ thể hơn. Tóm tắt nghiên cứu:
18/12/2010(Xem: 14781)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minh và dịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
14/12/2010(Xem: 16504)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567