Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Châm cứu xuất phát từ nền văn minh Lạc Việt

09/01/201706:41(Xem: 9560)
Châm cứu xuất phát từ nền văn minh Lạc Việt


cham cuu

Châm cứu xuất phát từ nền văn minh Lạc Việt

 

Nguyễn Thiếu Dũng


 

Châm là một thủ thuật điều trị bệnh bằng cách dùng các vật nhọn châm vào huyệt vị trên cơ thể bệnh nhân. Thời thượng cổ thầy thuốc dùng đá nhọn để châm gọi là thạch châm về sau có sự cải tiến, kim châm được làm từ xương, từ đồng rồi sắt, sau đó là vàng hay bạc đến nay là thép không gỉ.

Về nguồn gốc phát sinh kỹ thuật châm, sách “Hoàng đế Nội kinh”, thánh thư của Đông y, Thiên mười hai “Dị pháp, phương nghi luận” cho biết: “Nam phương là một khu vực trưởng dưỡng của trời, đất, dương khí ở nơi đó rất thịnh. Đất ở đó thấp và thủy thổ ẩm ướt, thường tụ nhiều sa mù, mốc. Người sinh nơi đó ưa ăn vị chua và các thức ướp, tạng người thớ thịt mịn đặc và hiện sắc đỏ, phần nhiều mắc bệnh loạn tý. Về phép trị, nên dùng “vi châm”. Cho nên “cửu châm” (chín loại châm) cũng đến từ gốc phương Nam”.

Nam phương thuộc hỏa, ứng về mùa hạ, nói Nam phương là khu vực trưởng dưỡng vì theo thuyết “xuân sanh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàn” thì mùa hạ là mùa vạn vật phát triển. Nam phương khí hậu thấp nhiệt, con người thích dùng đồ ăn có vị mặn nên thường mắc bệnh về gân cốt, đau nhức co rút chỉ có dùng châm cứu để trị liệu mới mang lại hiệu quả tốt. Vì nhu cầu như thế nên nghĩ ra phương pháp chữa trị bằng kim châm phải do người phương Nam tiến hành.

Nam phương là khu vực phía Nam, từ dùng có tính cách phiếm chỉ nên khó xác định thuộc khu vực nào, vì vậy không gây được ấn tượng mạnh và theo thói quen mọi người vẫn gộp chung lại nói rằng châm cứu là của Trung Quốc, thế nhưng những phát hiện ở Quảng Tây gần đây đã xác định rõ hơn tọa độ ở phương Nam cho thấy châm cứu xuất phát từ nền văn minh Lạc Việt.

Hội Trưởng Hội Nghiên cứu Văn hóa Lạc Việt ở Quảng Tây, Tạ Thọ Cầu, cho biết: một phóng sự của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc “Giải mật Hoàng đế Nội kinh” cho rằng y thuật châm cứu của người cổ Lạc Việt ở Quảng Tây là khởi nguồn của y thuật châm cứu Trung Quốc đã gây chấn động khiến nhiều người cảm thán “ không ngờ đất Quảng Tây tưởng đâu hoang dã lại có một nền y dược văn minh rực rỡ như vậy”.

Từ tháng 10 năm 1985 đến tháng 3 năm 1986 ở Quảng Tây các nhà khảo cổ đã đào được nhiều đồ đồng, đồ gốm, đồ ngọc vào thời Thương Chu trong đó có hai kim châm cứu bằng đồng loại châm cạn, chứng tỏ nơi đây đã sớm dùng loại châm bằng kim thuộc làm sáng tỏ lời khẳng định của Hoàng đế Nội kinh “châm cứu xuất phát từ Nam phương” (1)


cham cuu-2



Đất Quảng Tây là đất của người Lạc Việt, vào thời Thương Chu người Hoa chưa di dân đến đó, lúc bấy giờ người Lạc Việt đã biết dùng kim châm để trị bệnh vậy là rõ ràng thuật châm cứu do người Lạc Việt sáng chế.

Ngày nay các học giả cùng chung quan điểm nhận rằng hậu duệ người Lạc Việt gồm số người Hán nói tiếng Quảng Đông (Việt ngữ), người Tráng, người Việt Nam (Kinh, Nùng, Thái), người Lê, người Thủy… Nói chung, người Lạc Việt thuộc giống Bách Việt không phải là người Hoa (Hán tộc)

Sách sử Trung Quốc liệt người phương Nam vào hạng man di hiểu như là người kém văn minh, chưa khai hóa theo tiêu chuẩn Hoa Hạ, đấy là cách gọi bị chính trị hóa hàm nghĩa kỳ thị làm biến dạng nguyên nghĩa. Thật ra người phương Nam mà gọi là Nam Man chính là để chỉ đấy là dân nông nghiệp, chuyên canh tác lúa nước, trồng dâu nuôi tằm. Chữ Man 蠻, gồm có hai chữ mịch là bó tơ, chữ ngôn ở giữa, nguyên trên Giáp cốt văn là hình vẽ một nông cụ giống như cái xẻng được cách tân thành chữ ngôn có chữ khẩu chính là lưỡi xẻng; chữ trùng ở dưới không phải là sâu bọ mà chỉ tất cả các loài cầm thú như mao trùng chỉ loài thú, vũ trùng chỉ loài chim, đại trùng chỉ loài cọp, trường trùng chỉ loài rắn, bộ trùng ở đây chỉ con rắn hay con rồng totem của người Lạc Việt, chính vì nhìn dưới dạng chữ trùng (sâu bọ) mà người ta đã xuyên tạc biến nghĩa từ Man theo nghĩa kỳ thị xấu xa.

Theo truyền thuyết đất của nước Văn Lang, Bắc tới Động Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), Đông giáp Biển Đông.

Theo Khảo Cổ học di chỉ văn hóa Hà Mẫu Độ, văn minh lúa nước của chủng Bách Việt hình thành trước chủng Hoa.

Hà Mẫu Độ thuộc trấn Dư Diêu, tỉnh Chiết Giang, đọc theo âm Ngô Việt là “Hói mụ đò”, tức là chỗ để đò qua sông Mẹ (hói mụ) (2)

Theo Di truyền học, gen của người Hoa Nam khác gen của người Hoa Bắc nhưng cùng loại gen với người Đông Nam Á.

Theo Ngôn ngữ học những người Việt bị Hán hóa vẫn dùng Việt ngữ (tiếng Quảng Đông), chữ ngày nay gọi là Hán tự là hậu duệ của chữ của người Lạc Việt cổ (đào được ở Quảng Tây).

Nói chung văn minh Hoa Hạ (Hán tộc) đã kế thừa văn minh Bách Việt, nên nói y thuật châm cứu của Lạc Việt là cội nguồn của y thuật châm cứu Trung Quốc cũng là chuyện “uống nước nhớ nguồn”, là chuyện đạo lý muôn đời không thể khác đi.

               

Nguyễn Thiếu Dũng

 

Chú thích:

(1) Tạ Thọ Cầu, Thần kỳ đích Lạc Việt cổ y dược, http://www.luoyue.net/show.aspx?tid=912

 

(2) Lãn Miên, Di chỉ Hà Mẫu Độ, http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/25644-di-chi-ha-mau-do/

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 16291)
Xét theo thiên Vũ Cống, nước Việt ở về phía nam đất Dương Châu. Theo sách Thiên Quan, từ sao Đẩu mười một độ qua sao Khiên Ngưu đến sao Chức Nữ bảy độ là tinh kỷ. Kể về sao thì ở về ngôi sửu, cùng một phận dã tinh truyện với nước Ngô. Cõi nam là Việt môn, có rất nhiều nước như Âu Việt, Mân Việt, Lạc Việt, cho nên gọi là Bách Việt. Bởi vì miền này ở phía nam Dương Châu, nên lại gọi là Nam Việt. Vùng đất từ núi Ngũ Lĩnh xuống phía nam thuộc về Nam Việt. An Nam là miền đất ở phía nam nước Việt nay là quốc hiệu thường gọi.
08/04/2013(Xem: 8767)
Đức Phật dạy: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn cũng như giáo lý của ta chỉ có một vị là giải thoát”. Mùi vị của nước trăm sông tuy có khác, nhưng chảy về biển cả thì chỉ là một vị mặn. Mục tiêu chính là Đức Phật xuất hiện ở đời là để giúp chúng sanh “chuyển mê thành ngộ” nghĩa là dứt bỏ những mê lầm tà vạy trở về con đường sáng giác ngộ chân lý, giác ngộ chân lý là được giải thoát.
28/03/2013(Xem: 4531)
Nguyên là một quyển sách do nhà Hachette tại Pháp xuất bản năm 1864. Sách khá xưa, vì thế tôi xin phép được dài dòng kể lại vì đâu lại có quyển sách này trong tay. Tại Pháp, cứ mỗi năm một hai lần các làng xã tổ chức ngày bán đồ cũ. Ðó cũng là dịp dân trong vùng gặp nhau trò chuyện.
07/01/2013(Xem: 4192)
Thưa Ngài Chủ Tịch, “Quốc Gia Hưng Vong, Thất Phu Hữu Trách,” Cha Ông chúng ta đã dạy Bần Tăng từ thuở tấm bé cho đến ngày nay và hơn nửa thế kỷ qua Bần Tăng đã thực hành hạnh cứu khổ, ban vui (Từ Bi)theo lời Phật dạy. Từ khi Miền Bắc thống nhất đất nước, Miền Nam thua trận biến thành “Dân Oan”, oán hận ngút trời, hứa hẹn một cơn binh lửa nồi da xáo thịt mới, sau 39 năm Miền Bắc không thực sự thành công trong việc an dân sau nhiều năm chinh chiến.
17/12/2012(Xem: 4691)
Chúc tất cả mọi giới người đã đến Mừng đồng bào tham dự buổi hôm nay Lễ khai trương cơ sở quan trọng nầy Khánh hỷ của những tấm lòng yêu nước. Thành sự thật đã đạt thành mong ước Văn hóa mình đã tụ điểm nơi đây Phòng tuyến đầu đã chiến thắng từ đây Chính nghĩa đã vươn cao thành sức mạnh Phủ đáp lại tình hiến dâng: Hữu Chánh
14/11/2012(Xem: 7174)
Để có thể nắm vững hơn về Phật giáo trong tình trạng hiện nay, có thể chúng ta cần nói thêm về lịch sử Phật giáo và ba truyền thống chính là Phật giáo Nguyên thủy, Đại thừa và Kim cương thừa. Ông có thể giải thích thêm vài nét chính về các truyền thống ấy hay chăng ? Ta hãy bắt đầu với Phật giáo Nguyên thủy ?
26/07/2012(Xem: 7725)
Thầy tôi khuất bóng nay đã 46 năm. Tôi cũng đã trãi qua mấy chục năm trường, đem tài sức hữu hạn của mình chung lo hành đạo và hóa đạo, cho đến bây giờ tuổi gần bảy mươi, mà ân hưởng của Thầy tôi ngày nào vẫn thấy còn đầm ấm bên lòng. Tình Thầy trò ngoài cái nghĩa là tình thiện tri thức được xông ướp trong mùi hương đạo, còn có nghĩa của một thứ tình gắn bó vô túc duyên không sao nói hết được.
09/07/2012(Xem: 6196)
Vùng đất trù phú Nam Bộ của Việt nam ngày nay từ khu vực Đồng Nai đến Hà Tiên xưa thuộc Vương Quốc Phù Nam. Phù Nam là tên phiên âm tiếng Hán của từ Phnom có nghĩa là núi. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái thì người Tàu thời xưa gọi tên nước này là ‘Diệu Nghiêm’. Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên hình thành tại Đông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên. Chúng ta có thể khẳng định rằng xã hội văn minh đã hiện hữu tại vùng đất này rất lâu trước khi vương quốc được thành lập.
29/01/2012(Xem: 16095)
Việt Nam, là một quốc gia nằm trong vùng Đông Nam Châu Á, Bắc giáp với Trung Hoa, Đông và Nam giáp với Biển Nam Hải, phía Tây giáp với Lào và Campuchia; diện tích: 329.556 km2, dân số 70 triệu người; mật độ dân cư: 224 người/km2; dân số dưới 15 tuổi: 39, 2%; tuổi thọ trung bình: 62,7 tuổi; tử suất trẻ em: 59%; học sinh cấp Trung học : 46,9%; tôn giáo chính: Phật giáo ( những tôn giáo nhỏ khác là Khổng, Lão, Cao Đài, Hòa Hảo, Ky Tô, Tin Lành…); thể chế chính trị: Cộng Sản; Lao động (nông & ngư nghiệp): 73% dân số; truyền thông đại chúng: 7 triệu máy radio, 3 triệu máy truyền hình, Nhật báo Nhân Dân phát hành 200.000 tờ mỗi ngày; thu nhập bình quân đầu người 113 đô la.
25/01/2012(Xem: 9988)
Ngày hôm nay trên mạng xã hội có một số người chia sẻ bộ sưu tập hình ảnh bản đồ Việt Nam từ những năm thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 19. Chia sẻ cùng các bạn, tôi sẽ bổ sung thêm các thông tin chi tiết sau, hoặc nếu bạn nào có thông tin gì về từng thời kỳ vui lòng comment để bài viết được hoàn thiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]