Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Viễn chinh Nam Kỳ

28/03/201318:51(Xem: 4153)
Viễn chinh Nam Kỳ

Viễn chinh Nam Kỳ

Nguyên tác: Histoire deL’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861

Người dịch: Hoang Phong

---o0o---

Lời Tựa

(của người dịch)

Nguyên là một quyển sách do nhà Hachette tại Pháp xuất bản năm 1864. Sách khá xưa, vì thế tôi xin phép được dài dòng kể lại vì đâu lại có quyển sách này trong tay.

Tại Pháp, cứ mỗi năm một hai lần các làng xã tổ chức ngày bán đồ cũ. Ðó cũng là dịp dân trong vùng gặp nhau trò chuyện. Nhà nào có đồ đạc không dùng thì đem ra bán rẻ. Hoặc nhà nào dọn dẹp kho, tầng hầm, nhà xe, có thứ gì không dùng cũng đem ra bán. Có những gian hàng ăn uống vui như ngày hội. Tôi thích đi thơ thẩn dạo xem người lớn gặp nhau, trẻ con nô đùa, xem những thứ lỉnh kỉnh bày la liệt trên mặt đất, những vât kỷ niệm của ông bà họ từ xưa, những đồ dùng trong nhà còn mới hay đã hỏng. Bỗng đi ngang gian hàng của một người thanh niên còn trẻ, anh ta vọt miệng hỏi tôi:

- Ông có mua sách cũ không?

Tôi nhìn thấy trên mặt đất cạnh chân anh chỉ có độ mười quyển sách. Anh ta hiểu ý ngay và giải thích với tôi rằng:

-Có một người buôn bán sách cũ chuyên nghiệp vừa mua hết, chỉ còn có từng đó.

-Anh cho phép tôi lựa nhé!

Chưa kịp ngồi xuống xem thì anh ta đã nhanh nhẹn cuối xuống nhặt lên một quyển sách đưa cho tôi. Quyển sách mốc meo, ẩm uớt, tuy đóng bìa cứng nhưng đã rách nát. Nể nang đứng lại vì lời mời của anh, bây giờ lại nể nang vì anh ta chìa cho tôi quyển sách trước mặt. Quyển sách mốc xanh rất bẩn, vì lịch sự tôi phải cầm. Lật ra trang đầu:

Histoire

de

L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE

en 1861

Tôi ít khi đọc sách vớ vẩn, nhưng dù sao thì quyển sách này cũng nói về quê hương tôi, biết đâu có một vài chi tiết hay hay về lịch sử.

Từ ngày nhỏ tôi rất ghét môn sử, không bao giờ thuộc bài. Sử của một nước mà tôi không biết nó ở đâu, địa danh của một trận đánh cũng chẳng biết nó chỗ nào, năm ngàn người chết hay mười ngàn người chết thì cố nhớ để trả bài thế thôi, nếu vô phước mà thầy gọi trúng tên.

Ðã mua thì phải đọc. Nhưng càng đọc thử lại càng thấy nhiều xúc cảm dâng lên trong tôi. Những xúc cảm rất phức tạp, vừa đau đớn, vừa hãnh diện, vừa mỉm cười. Ðau đớn cái đau đớn của tổ tiên tôi, hãnh diện cái hãnh diện của dân tộc tôi, mỉm cười trước cái ngây ngô của lịch sử, cái thật thà dễ thương của con người. Có khi nước mắt chảy quanh nhưng cũng có khi phải bật thành tiếng cười.

Vì thế đã nảy ra cái ý dịch quyển sách này để những người đồng hương với tôi có dịp chia xẻ những cảm xúc trong tôi.

Tác giả có lối văn rất xưa, rắc rối và bóng gió, thường hay dùng chấm phẩy (;) hai chấm (:) câu và ý dài dòng, tôi cố gắng, nếu có thể được, giữ nguyên cách hành văn và cả cách chấm câu của tác giả khi dịch. Cố giữ lối trình bày ý tưởng của tác giả, nhưng cũng phải chuyển thành tiếng Việt Nam thế nào cho gọn gàng, dễ đọc. Câu nào ‘’nữa tây nữa ta’’ thì xin độc giả tha thứ.

Cuối trang thỉnh thoảng có ghi chú, nếu là ghi chú của tác giả thì tôi không thêm gì cả, nếu ghi chú của người dịch, trong mục đích giúp người đọc dễ theo dõi câu chuyện, thì tôi ghi rõ là: (ghi chú của người dịch). Nếu có ghi chú của tác giả lẫn lộn với ghi chú của người dịch thì tôi ghi cả hai cho rõ ràng.

Tên người và địa danh tôi giữ nguyên theo thời đó và theo cách viết trong sách, không thay đổi.

Sách có mười chương, ba trang hình vẽ và phần phụ lục Hình 1 là bản đồ sáu tỉnh Nam kỳ vào thời đó. Hình 2 là bố trí của thành Kì hòa, thành phố Saigon-Chợ lớn và hệ thống sông ngòi chung quanh, rất tiếc là trong quyển sách rách nát của tôi tờ hình số 2 đã mất. Hình 3 là thành Mỹ tho và hệ thống sông ngòi.

Phần phụ lục gồm có sáu phần và sau hết là Sổ tang:

Phụ lục I:Danh sách tổng tham mưu của toàn thể hạm đội đánh chiếm Nam kỳ đặt dưới quyền chỉ huy của phó thủy sư đề đốc Charner, tên từng chiến hạm và sĩ quan chỉ huy, chức vụ và cấp bực của mỗi người, (danh sách chỉ có các sĩ quan chỉ huy trở lên, từ cấp bực hạ sĩ quan trở xuống không ghi, gồm 20 trang trong nguyên bản). Tôi xem như một tài liệu tham khảo nên không dịch.

Phụ lục II:Danh sách, tên tuổi, cấp bực, toàn bộ Quân đoàn viễn chinh Nam kỳ, từ vị nguyên soái tức phó thủy sư đề đốc Charner đến các sĩ quan cấp dưới, lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, ban tham mưu, hành chính v.v., từ cấp hạ sĩ quan trở xuống không có trong danh sách, (tất cả 14 trang trong nguyên bản). Tôi không dịch phần này

Phụ lục III:Danh sách những quân nhân được tuyên dương công trạng, (3 trang trong nguyên bản). Tôi chỉ dịch lời tuyên dương của phó đề đốc chỉ huy trưởng, không nêu tên từng người.

Phụ lục IV:Chỉ dụ của hoàng đế Tự Ðức (ngày 4 tháng 11 năm 1860). Tôi cố gắng dịch ngược trở lại thành tiếng Việt, (3 trang trong nguyên bản).

Phụ lục V:Cách xây dựng thành trì của người An nam (gồm 3 trang trong nguyên bản). Phần này có phiên dịch.

Phụ lục VI:Nông trại quân đội và dân quân Ðồn-điền An nam (8 trang). Phần này có phiên dịch.

Sổ tang:Tất cả những người Pháp gục ngã ở Nam kỳ miền dưới cho đến năm 1862. Dịch những giòng mở đầu sổ tang của tác giả. Sổ tang gồm ba phần (không dịch):

Phần 1: Danh sách những người tu hành, chức vụ, ngày chết (5 trang trong nguyên bản)

Phần 2: Danh sách quân nhân thuộc hải quân, cấp bực, ngày chết (25 trang trong nguyên bản)

Phần 3: Danh sách quân nhân thuộc lục quân, cấp bực, ngày chết (35trang trong nguyên bản)

Cuối sách tôi xin phép độc giả được ghi thêm một vài cảm nghĩ của tôi để làm phần kết luận.

Tôi không ngồi đối diện với tác giả để tìm hiểu và hỏi han tác giả. Tôi xin phép được ngồi một bên bàn với tác giả để cùng nhau lật lại một vài trang sử nhỏ của quê hương tôi. Tác giả kể cho tôi nghe những gương oai hùng của người lính viễn chinh, tôi cũng len lén mượn ngòi bút của tác giả để mô tả lại những giọt máu của tổ tiên tôi, những giọt máu rơi rớt trên những thửa ruộng sình lầy. Hình như những giọt máu ấy vẫn còn âm ấm trong tôi.

Bures-Sur-Yvette, 08.03.00

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/09/2018(Xem: 12701)
Việt Nam là một quốc gia nằm ở ngã tư của lưu lộ quốc tế thuộc Đông Nam Châu Á, và là nơi dừng chân của các thương buôn của vùng Địa Trung Hải. Từ một vị trí địa lý thuận lợi như thế, do đó các quốc gia trong vùng này đã thiết lập các mối quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, tôn giáo… qua hai con đường: Hồ Tiêu, tức là đường biển qua ngã Sri lanka, Indonesia, Trung Hoa, Việt; và đường Đồng Cỏ là đường bộ, xuất phát từ vùng Đông Bắc Á rồi băng qua miền Trung Á, Mông Cổ, Tây Tạng, Việt Nam, Trung Hoa. Vì vậy các tôn giáo lớn, trong đó có Phật giáo gặp nhiều thuận lợi du nhập vào nước ta.
14/08/2018(Xem: 4441)
Trần Quý Cáp qua Đà Nẵng hoài cảm Châu Yến Loan Trần Quý Cáp là một trong ba lãnh đạo kiệt xuất của phong trào Duy Tân, một phong trào cách mạng rất sôi nổi của những năm đầu thế kỷ XX.
11/08/2018(Xem: 9508)
Sau Hiệp định Paris 1973, những người lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Từ đó đến nay đã 45 năm, những “di chứng” chiến tranh vẫn còn trên mảnh đất này, và di chứng ấy còn trong tâm trí những người lính ở bên kia bán cầu. Bên cạnh việc hóa giải nỗi đau hiện hữu của chiến tranh, thì hóa giải những uẩn khúc trong lòng người cũng cho thấy nỗ lực phục thiện mà tất cả mọi người bất kể chiến tuyến đều hướng đến. Một buổi trưa đầu tháng 6 năm 2018, có bốn người cựu binh Mỹ tuổi chừng tám mươi tìm về ngôi chùa làng Bồ Bản (xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Trên xe bước xuống, ông Anderson ôm trước ngực một bức tượng Quán Thế Âm Bồ-tát màu trắng, trang nghiêm đi vào chùa. Đại đức Thích Mãn Toàn, người trụ trì ngôi chùa ra tiếp đoàn. Anderson hỏi Đại đức Thích Mãn Toàn đây có phải chùa Trường Khánh không? Đại đức Thích Mãn Toàn đáp phải, cả vùng chỉ một ngôi chùa này tên Trường Khánh, người dân thường gọi là chùa Bồ Bản. Ông Anderson chưa dám tin lời vị sư trụ trì mà v
06/08/2018(Xem: 5943)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
20/07/2018(Xem: 11033)
Vào tháng 10, mùa đông, nhằm tiết đại hàn, giá lạnh, vua Lý Thánh Tông (1023 – 1072) nói với các quan hầu cận rằng: "Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.” (1)
23/06/2018(Xem: 4906)
Hơn 13h ngày 23/6, giáo sư, nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê, qua đời tại Hà Nội, hưởng thọ 85 tuổi.
21/03/2018(Xem: 14912)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
07/03/2018(Xem: 6351)
Ý đồ của Hốt-tất-liệt, dựa trên Phật giáo Tây Tạng để thống trị Trung Quốc không chỉ bằng vũ lực mà còn cả về tư tưởng, tôn giáo, chính trị xã hội; nếu suy luận này của chúng ta không lạc hướng, thế thì lịch sử chứng tỏ ý đồ này đã thất bại. Ý nghĩa của sự thất bại này thuộc phạm vi nghiên cứu của các nhà văn hóa và sử học.
07/03/2018(Xem: 5402)
Quân nhân Mỹ gốc Việt Hiền Trịnh trên tàu sân bay USS Carl Vinson.
01/01/2018(Xem: 39545)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567