Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương VII

28/06/201319:24(Xem: 2550)
Chương VII

Viễn chinh Nam Kỳ

Nguyên tác: Histoire deL’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861

Người dịch: Hoang Phong

---o0o---

CHƯƠNG VII

Ðề cương:

Ðánh chiếm My-thô._Chiến thuật tấn công._Thành An nam bị vây hãm trên đất liền và từ mặt sông Cambodge._Chương trình hành quân vẫn được duy trì mặc dù bịnh dịch tả, sốt rét, kiết lỵ, chướng ngại thiên nhiên và nhân tạo; tàu di chuyển khó khăn, cọc cừ đóng dài cả dặm; thành đồn trang bị súng ống rất mạnh và địch biết sử dụng thành thạo._Sau khi thành My-thô bị đánh bại, mùa mưa bắt đầu mãnh liệt._Các cuộc hành quân phải hoãn lại.

Các lực lượng hải quân, công binh, pháo binh, tổng hành dinh thay phiên nhau thăm dò sông Cambodge từng giờ một và đồng thơi thám thính vùng ven biên My-thô.

Có hai con rạch nối liền sông Vaĩ-co tây và thành phố My-thô. Một trong hai con rạch đổ thẳng vào sông Cambodge, đó là kinh Bưu điện[1], kinh này trong các báo cáo thời ấy mang tên An nam là Rach-run-ngu [2]Con rạch thứ hai là kinh Thương mại [3]Kinh Thương mại đánh vòng xa hơn kinh Bưu điện nhưng cũng đổ vào sông Cambodge, cách My-thô chừng tám dặm về phía thượng lưu, tức thuộc vùng hậu tuyến thành My-tho. Kinh Thương mại nối dài với con kinh huyết mạch là kinh Tàu [4]tạo ra đường lưu thông buôn bán nối liền các vùng phì nhiêu thuộc tỉnh My-thô và Saĩgon. Nếu dùng làm đường chiến lược để đánh My-thô thì kinh Thương mại thuận lợi hơn kinh Bưu điện. Kinh Thương mại không giống với kinh Bưu điện vì kinh Bưu điện khi gần đến thành My-thô thì trở nên hẹp và hướng thẳng vào thành, các pháo hạm nhỏ trở nên quá lộ liễu khi tiến gần đến thành địch. Tốt nhất là đặt vài tàu nhỏ trên kinh Thương mại để chận đường rút lui của địch trong khi ta dùng kinh Bưu điện để tấn công. Kinh Thương mại không có đập chắn cũng không có cắm chông, cũng không có đóng đồn; nhưng kinh lại cạn, cỏ nhiều rất vướng, các phương tiện thủy vận của ta không dùng kinh này được.

Rốt lại chỉ còn kinh Bưu điện. Quân địch làm đập chắn và phòng thủ rất chặt chẻ kinh này, vì biết đây là đường nước sâu nhất mà các pháo hạm bằng sắt của ta có thể dùng để tấn công vào thành. Trinh sát và phúc trình của bọn gián điệp đều cho biết có rất nhiều đập chắn ngang, các đồn canh lại trang bị khí giới hùng hậu, rồi đây quân ta bắt buộc sẽ phải gặp sức kháng cự mạnh mẽ. Ðường cái quan từ sông Vaĩ-co đến My-thô thì người An nam đã phá hư hỏng không còn xử dụng được nữa, cầu bắc qua các kinh nhỏ đã bị phá xập. Ðường cái có bảy kinh nhỏ cắt ngang, đường vòng như hình cánh cung mà dây cung là con kinh Bưu điện.

Vì vậy là trên bờ, dưới sông hay trên mặt biển, tất cả đều cho thấy chuyến này đánh vào thành My-thô là một chuyện khó khăn và nhiều rủi ro. Nhưng sau khi ta phá hết đập, hạ hết các đồn canh giữ trên kinh Bưu điện, các pháo hạm bằng sắt sẽ có thể dùng kinh này để tiến đánh thành Mỹ-thô. Các cỗ súng nòng có khía đem đặt trên tàu sẽ giữ vai trò giống như đại pháo do ngựa kéo, hai bên bờ sẽ có bộ binh yểm trợ. Khi các toán quân viễn chinh tiến gần tới thành thì biết đâu nhờ may mắn ta sẽ gặp một con nước lớn bất ngờ trên sông Cambodge để có thể đưa cả hạm đội tới gần để đánh thành địch ngay trước mặt và cả bên hông thành[5]

Chương trình chiến thuật được quyết định như vừa kể, và ngày 26 tháng ba đại úy hải quân Bourdais, từ mười lăm ngày nay đóng nút chận tại cửa kinh Bưu điện nhận được lịnh bắt đầu hành quân đánh My-thô và phải khởi sự phá ngay các đập đầu tiên. Pháo hạm lớn Mitraille, đại úy Duval chỉ huy; pháo hạm số 18, đại úy Peyron chỉ huy; pháo hạm số 31, đại úy de Mauduit Duplessix chỉ huy; đại đội quân đổ bộ theo tàu Mongedo đại úy de la Motte-Rouge chỉ huy; 200 thủy quân đổ bộ (thuộc các đại đội 2 và 5, do hai đai úy Proubet và Hanès cầm đầu); 30 người Tây ban nha do trung úy Maolini chỉ huy; 1 ổ súng cối miền núi và mười người phụ trách ổ súng này thuộc chiến hạm Impératrice-Eugéniethì giao cho thiếu tá Bourdais sử dụng và điều khiển. Ðại úy công binh Mallet và đại úy tư lịnh Haillot được biệt phái thêm cho đoàn quân xuống đánh My-thô.

Thủy sư đề đốc đưa xuống cho đại úy hải quân Bourdais những lời chỉ thị của ông liên quan đến cuộc hành quân và nhất là cách phải đối xử như thế nào khi ra mắt phó vương An nam:’’Ông phải nói với phó vương An nam trấn giữ thành My-thô, khi trao thư tôi cho ông ta, rằng ông ta phải để ta chiếm giữ thị trấn này và cả vùng tứ giác mà ranh giới là sông Vaĩ-co tây, kinh Bưu điện, kinh Thương mại và sông Cambodge, mà không được phép làm khó dễ gì hết; ông ta phải tuân theo điều chúng ta đòi hỏi không được trì hoản hay chậm trể vì bất cứ lý do gì.

‘’Nếu ông ta muốn về Saĩgon, xin ông cứ cấp cho ông ấy một tờ giấy thông hành. Ông ta sẽ được đối đãi trong thể. Nếu ông ta muốn đầu thú sang hàng ngũ của ta, ông ta sẽ được giữ nguyên tước phong, nhưng phải trở về dân sự. Nếu ông muốn rút lui an phận trên lãnh thổ An nam thì ta sẽ cấp cho phương tiện.

‘’Ông hãy thận trọng khi thám sát và lúc tiến về Mỹ-thô. Ông đừng quên là nếu bất cứ một người nào của ta bị địch bắt làm tù binh tức là một sự thất bại của ta; ngay cả lọt vào tay họ sống hay chết cũng thế._Mặc dù khi ông yết kiến vị phó vương cũng không được phép quên mục tiêu tối hậu của ta là chiếm My-thô (27 tháng 3 năm 1861).’’

Vị chỉ huy Bourdais tìm cách đưa tàu vượt kinh Thương mại trong suốt những ngày 27, 28, 29, và 30 tháng ba. Các pháo hạm bị lún bùn và bị cỏ quấn; càng ngày tàu càng gặp nhiều khó khăn, quả thật phải công nhận là kinh Thương mại không thể nào dùng để đưa tàu đến Mỹ-thô được. Vì thế vị chỉ huy Bourdais phải dồn tất cả lực lượng dưới quyền ông vào kinh Bưu điện. Ngày 1 tháng 4 ông đã tập hợp hết tàu bè của ông vào kinh này.

Tàu Mitraille, sau nhiều lần tìm cách vượt kinh Thương mại không xong thì nhận được lịnh trở về kinh Bưu điện. Tàu Mitraillekhi vào Kinh Bưu điện phá được hai đập đầu tiên trong kinh này. Trung úy hải quân Gardoni, hai đêm trước đó cũng đã tìm cách tiến được đến đập thứ ba nhưng chạm trán với hai đồn trấn giữ nằm hai bên bờ; đạn bắn xéo từ hai đồn làm cho tàu không tiến lên được nữa.

Ngày 1 tháng tư, hai đoàn dọ thám trên bờ xác định vị trí hai đồn này. Tức thời pháo binh kéo súng bắn vào: nhưng vị trí vẫn còn cách xa một ngàn hai trăm thước nên không biết rõ kết quả. Hôm sau, ngày 2 tháng tư, Tàu Mitraille tiến lên, theo sau là tàu Alarme; nhưng tàu Mitraille lại bị mắc cạn cách đồn thứ nhất bốn trăm thước và làm nghẽn đường tiến của tàu Alarme phía sau. Tuy vậy, kinh còn đủ rộng để các pháo hạm số 18, 31 và 20 len qua được. Ba pháo hạm tiến đến sát đồn địch, khoảng cách chỉ còn bằng tầm súng ngắn cầm tay, chỉ trong mấy phút là khống chế được đồn này.

Cả hai đồn (đồn thứ nhất và đồn thứ hai), xây cất trên bùn, chung quanh có hào, nước sâu đến hai thước Mỗi đồn có đục mười hai lỗ châu mai. Các khí cụ phòng thủ phụ thuộc gồm có bàn chông, cọc nhọn và nhất là chung quanh đồn lại đầy bùn sình, vì thế không thể nào đánh thẳng vào được. Từ xa ta chỉ biết nã súng vào đồn. Ðồng thời, tuy dưới lằn đạn của địch từ trong đồn bắn ra, ta vẫn phá thêm được hai đập (đập thứ ba và thứ tư)._Trong trận này, đại úy hải quân Bourdais trương cờ chỉ huy của mình trên pháo hạm số 18. Hai tàu MitrailleAlarme, mặc dù một bị mắc cạn một bị nghẽn không lên được, nhưng cả hai đã dùng hỏa lực để góp phần vào chiến thắng ngày mùng một tháng tư.

Ta mất suốt hai ngày, 2 và 3 tháng 4, để phá đập. Ðịch nhận chìm nhiều sọt đá dưới đáy kinh, quân lính phải mò lên từng tảng một. Cọc nhọn và cừ bằng thân cau cắm rất sâu dưới lòng kinh, ta phải dùng cần trục để nhổ lên. Ðể nhổ cọc ta đóng giàn thật chắc trên bờ, sau đó luồn lòi tói qua ròng rọc để buộc cừ cọc ngập trong bùn sình rồi kéo lên. Quân ta phải lội xuống kinh, sình ngập ngang người, phần phía trên phơi ra nắng nóng bỏng. Dịch tả lan tràn trong đoàn quân viễn chinh. Người nào không bị dịch tả thì bị sốt rét hoặc kiết lỵ. Từ lúc ta dùng đại pháo để hạ các đồn xong thì ngày đêm quân lính phải ra sức vét kinh, nhất là khi nhìn họ làm việc lom khom rét cầm cập dưới bầu trời thiêu đốt, ta thấy rằng sức nhẫn nại của họ đang thúc dục ta phải đắnh thành My-thô càng sớm càng hay. Người nào ngã xuống thì cho các sa-lúp dùng chở ngựa đem họ về tàu MitrailleAlarme, bị mắc cạn và kẹt ở phía sau từ ngày 2 tháng 4.

Ngày 3 tháng 4, đập phá xong, ba pháo hạm bằng sắt tiến lên, được hai mươi phút lại chạm trán và bắn nhau với một đồn khác (đồn thứ ba) nằm phía bờ bên trái. Ngay phút đầu người chỉ huy An nam trong đồn bị thương văng mất một bên vai. Sức phòng thủ liền giảm đi, đồn bị ta hạ, địch bỏ chạy. Ðại đội 2 của ta chiếm lấy đồn. Ðồn có bốn lỗ châu mai dùng canh giữ hai đập cắm cọc và cừ nhọn (đập thứ năm và thứ sáu); đồn địch nằm vào khoảng giữa hai đập. Ðập thứ nhất cũng giống như các đập trước đây, tức cắm bằng thân tre và thân cây cau vạt nhọn; xa hơn một chút là một thuyền chiến chở đầy đất mà địch đem đánh đắm giữa kinh. Khoảng giữa hai đập thứ năm và thứ sáu có neo hai mươi lăm chiếc bè chất đầy lưu huỳnh và bùi nhùi. Vị trí này là nơi hai dòng nước trên sông Vaĩ-co và Cambodge gặp nhau, nên bùn đất dồn lại, đáy kinh rất cạn; ngay khi nước lớn cũng chỉ sâu một thước rưỡi. Chiếc thuyền chiến thì địch đánh đắm ngay vào nơi hai dòng nước gặp nhau.

Sau khi đồn thứ ba bị hạ, vị chỉ huy Bourdais liền ra lịnh cho đại úy Duval nội trong ngày mang tàu Mitraillequay về báo cáo tin chiến thắng của quân viễn chinh với vị tổng tư lịnh chỉ huy, đúng theo chỉ thị ông nhận lãnh trước khi hành quân. Ðại úy Bourdais sai phải báo cáo rằng ông đã chiếm được ba đồn, phá được năm đập; và chậm nhất là ngày 5 tháng tư sẽ phá xong đập thứ sáu để tiến lên; ông cũng đã đi được nữa đường từ sông Vaĩ-co đến sông Cambodge._ Vị sĩ quan lãnh trọng trách mang báo cáo sơ khởi về Saĩgon cũng gặp nhiều khó khăn. Tất cả sông rạch ông phải đưa tàu đi đều tùy thuộc vào thủy triều lên xuống, khi nước ròng thì nhiều nhánh cạn khô.

Nếu ba pháo hạm cứ tiếp tục liều lĩnh tiến lên mà không có bộ binh yểm trợ, ít nhất từ một trong hai bên bờ, sẽ phải gặp nhiều khó khăn. Hai bên lườn pháo hạm thường chạm với cây rừng mọc hai bên bờ kinh; địa thế ta không biết rõ; địch quân lại gia tăng thêm sức chống trả. Ta đang lâm vào một giai đoạn thật nguy hiểm trên đường tiến đánh My-thô. Ngày 4 tháng 4, từ Saĩgon ta hối hả thành lập một đội quân tăng viện, nhờ hộ tống hạm Echodo đại úy de Vautré chỉ huy đưa xuống. Ðạo quân tăng viện gồm 200 lính bộ do hai đại úy Lafouge và Azières cầm đầu; 100 thủy quân, 2 đại đội thủy quân đánh bộ, hai cỗ đại pháo nòng 4, hai súng cối miền núi nòng có khía trang bị đầy đủ thùng bọng và xe đạn, nhưng không có ngựa kéo, tất cả do đại úy Amlaudrie du Chauffaut cầm đầu; một đội công binh biệt phái gồm 50 người do đại úy Bovet cầm đầu và thiếu úy hải quân Amirault biệt phái sang công binh làm phụ tá. Thiếu úy Mahieu của công binh cũng đi theo, viện quân có chở thêm 20 000 viên đạn trừ bị cho bộ binh. Ðoàn quân viễn chinh trở nên khá đông và quyền chỉ huy chuyển sang tay của đại úy hải quân Le Couriault du Quilio, ông là sĩ quan tùy tùng của chính thủy sư đề đốc. Vị chỉ huy tiểu đoàn công binh là Allizé de Matignicourt làm phụ tá điều khiển tổng hành dinh cho vị chỉ huy mới tức là Le Couriault du Quilio. Hai hôm sau tức ngày 6 tháng tư, lại có thêm nhiều toán quân tăng viện nữa do đại úy hải quân Desvaux chỉ huy và hướng dẫn đưa từ Saĩgon đến Rach-run-ngu[6]Ðồng thời trung úy bộ binh Guilhoust ở Thu-yen-mot cũng được lịnh đem theo xuống tàu 3 ổ súng cối miền núi và trực chỉ My-thô.

Ngày 4 tháng 4, phó thủy sư đề đốc Charner ra huấn thị cho vị chỉ huy mới của đoàn quân viễn chinh đi đánh My-thô bằng những lời lẽ như sau: ‘’ Tôi giao cho ông thống lãnh đoàn viễn chinh đi đánh My-thô...Sau khi được báo cáo tình trạng hạm đội của ta trong kinh, và địa thế chung quanh thành My-thô, ông liệu xem có đủ sức đánh chiếm My-thô không, hay ông cần thêm yểm trợ nữa. Ông hãy cân nhắc và hành động thật cẩn thận không để xảyra một rủi ro nào hết.Theo tình báo của người An nam đưa thì chung quanh thành có nhà dân vì thế ông có thể dùng cho quân ta ẩn nẩp và đặt một giàn pháo để phá thành nếu cần._Nếu ông thấy ta có thể đào mương để tháo nước trong hào chung quanh thành thì hãy thực hiện vào ban đêm, chuyện này cũng không phải là khó khăn lắm. Ðây là một vấn đề phải nghiên cứu tại chỗ._Nếu vị phó vương đề nghị thương thảo với ông, thì ông sẽ trả lời rằng phải để ông chiếm thành rồi mới nói chuyện. Không một phút nào ông được phép quên là ông đang liên hệ với một con cáosẵn sàng đánh lừa ông.’’

Và ngày 6 tháng tư:

‘’Ông xem thử có thể đưa các pháo hạm bằng sắt vượt qua các địa thế mà ông đã thấy để vào sông Cambodge hay không. Rất có thể ông còn phải phá thêm nhiều đập nữa, và cũng có thể còn nhiều ghe thuyền địch đánh chìm để làm nghẹt kinh. Chưa nói đến là các pháo hạm bằng sắt của ta sẽ còn gặp khó khăn vì nước cạn. Tuy nhiên, đáy kinh là bùn nên các pháo hạm có thể vừa cày sâu xuống bùn một chân[7]mà vẫn có thể tiến lên được.

‘’Người ta cho tôi biết ở My-thô có nhiều thuyền chiến rất tốt, có thể quân An nam đem vài chiếc ra chống với ông đó. Vì thế phải cẩn thận mới được. Hủy diệt được các thuyền này là điều hết sức mừng cho ta; nhưng nếu bắt được các thuyền này thì lại còn tốt hơn nữa; mục đích là cắt phương tiện rút quân của địch. ‘’Tàu Lilyvà tàu Sham-Rock, vắng mặt từ tám hôm nay, sẽ không gia nhập vào lực lượng của ông. Ý định của tôi là sau khi tiếp tế cho các tàu này xong sẽ cho hai pháo hạm giúp sức cố tìm đường để lọt vào sông Cambodge.

‘’Ông cũng chịu khó để ý xem là có thể thử đem hai tàu MitrailleAlarmevào sông Cambodge được không. Nước thủy triều có thể giúp sức thêm. Ông xem thử ta có thể dùng hai thuyền buồm đáy bằng kéo pháo hạm giống nhự ngựa kéo để giúp pháo hạm thêm sức lướt lên hay không?’’

Trong khi đó vào ngày 5 tháng 4, sau khi đã phá xong các đập thứ năm và thứ sáu (ngày 3, 4, và 5 tháng tư), hạm đội của thuyền trưởng Bourdais, khi đó vẫn còn dưới quyền điều khiển của ông và đưọc tăng cường thêm pháo hạm số 16 do đại úy Béhic chỉ huy, đã tiến tới một đập nữa (đập thứ bảy). Lần đầu các tàu gặp địch quân chống trả từ hai bên bờ cùng một lúc; quân địch bắn xuống, các pháo hạm bắn trả thì quân xung kích biến mất. Ðây là một cảnh cáo cho ta. Quân ta tìm thấy một xác chết trên bờ và nhiều vết máu. Một đại đội thủy binh đổ bộ (đại đội 2) dừng quân và đóng tại địa điểm nơi hai dòng nước gặp nhau để làm quân yểm trợ, vừa để chống trả quân An nam thường tấn công lẻ tẻ ban đêm.

Lúc này thì bộ binh của ta hai bên bờ, vừa bị quân số thu hẹp, vừa phải cực nhọc phá đập nhổ cừ, nhổ chông, kiệt sức vì bịnh kiết lỵ, dịch tả và sốt rét, nên không còn đủ sức yểm trợ cho pháo hạm dưới sông nữa. Họ trông chờ đám quân tăng viện từ Saĩgon đưa xuống để tiếp sức bảo vệ các pháo hạm; ngoài công tác bảo vệ, quân tăng viện còn phải trinh sát để hướng dẫn pháo hạm, xác định vị trí đồn địch để tránh khỏi bị phục kích bất ngờ. Nhưng việc thực hiện thật khó khăn, nhiều khi không làm nổi: vì bọn gián điệp nói láo, hoặc hai bên nói với nhau không hiểu.

Tình báo do người An nam cung cấp (chỉ dẫn rất đúng) là bên tả ngạn chỉ có một kinh phụ, trong khi đó bên hữu ngạn có đến năm con rạch vừa lớn vừa nhỏ đổ vào Rach-run-ngu. Khi cách thành My-thô hai ngàn thước, con đường cái quan dọc bờ kinh có thể đắp lại và dùng được. Vì vậy quân ta quyết định tiếp tục hành quân theo bờ bên trái, sau đó khi gần đến My-thô sẽ đổi sang bờ bên mặt.

Nhóm quân tăng viện từ Saĩgon đi theo tàu Échođổ bộ sáng ngày 5 tháng 4 ở ngã ba sông Vaĩ-co và sông Run-ngu; địa điểm này do chiến hạm Rhintrấn giữ. Ngay ngày hôm sau, đại đội 2 bộ binh và thủy binh đánh bộ được cho xuống các sa-lúp do pháo hạm số 22 kéo theo; di chuyên thường trễ nải vì cừ cọc khi phá đập vẫn còn nổi lều bều làm tắc nghẽn nhiều nơi trong kinh Bưu điện. Gặp chỗ đáy cạn, pháo hạm phải tháo bỏ các ghe sa-lúp để vượt qua trước, còn ghe sa-lúp cứ thả trôi theo dòng nước. Mặc dù bị mắc cạn nhiều lần, nhưng bộ binh và thủy quân đánh bộ cũng đến được vị trí đập thứ tám vào lúc ba giờ chiều. Ðại đội trưỏng Allizé liền cho lịnh đổ bộ và tiến lên theo bờ phía trái. Ðại đội 10 thủy quân và 50 lính Tây ban nha do trung úy Maolini chỉ huy cũng nhập chung trong đám quân này. Ðất mềm, sình lầy, cây cối chằng chịt, thân dẽo lại gai góc, ngựa và la không tiến lên được, các ổ súng cối mang theo đành phải khuân vác trên vai. Cứ bốn cu li mang một cỗ súng, bốn cu li khác thì vác bàn bắn, hai cu li khiêng một thùng đạn. Cứ chia nhau như vậy và họ đi thật nhanh.

Các pháo hạm theo sau cách khoảng độ một trăm bước: nhưng pháo hạm mới tiến lên được 500 thước lại phải dừng lại vì thân cau địch chặt và ném ngổn ngang dưới kinh. Vừa dừng lại thì đồn địch (đồn thứ tư) bắn túa ra; ta cũng không biết vị trí đồn chỗ nào.

Chính nơi này địch tập trung tất cả mọi phương tiện phòng thủ của họ. Dưới nước các chướng ngại khổng lồ bít hết kinh. Trên bờ họ dàn trận theo một đường tuyến dài một cây số, trước trận là quân xung kích, phía sau có pháo binh và quân trừ bị. Phía ta, bộ binh, thủy quân, lính Tây ban nha, thủy quân đánh bộ đổ quân tràn ra đồng. Bộ binh dàn ra làm quân xung kích, bên phải có thủy quân và lính Tây ban nha hỗ trợ, bên trái có thủy quân đánh bộ hỗ trợ. Quân xung kích hai bên liền bắn nhau. Trận chiến bất thần ngã ngũ sau hai loạt tấn công của bộ binh Tây ban nha do trung úy Maolini hướng dẫn rất gan dạ; địch lui quân, trái với thường lệ, họ không mang theo xác chết. Ta liền biệt phái một nhóm bộ binh chiếm đồn. Số quân sĩ còn lại cắm trại trong một ngôi làng gần ngay phía trước đồn.

Pháo hạm phải dừng lại trước các chướng ngại khi quân hai bên đụng nhau trên bờ. Các loại chướng ngại có kích thước thật đang nể. Ðập dưới đáy kinh thật chắc chắn (đập thứ tám) lấp một phần kinh dài suốt chín mươi thước gồm ba chặn, mỗi chặn có chín ghe nhận chìm chở đầy bùn đất, phía sau đập suốt 1 100 thước thì địch dùng một số thân cau ném chắn ngang mặt kinh, một số đóng xuống đáy kinh san sát giống như một nơi ương cây giống. Sau trại cây giống lại có một đập nữa (đập thứ chín). Ðập thứ chín nằm ngay phía trước đồn mà ta vừa chiếm xong và phía trước ngôi làng quân ta đang cắm trại, các pháo hạm còn kẹt lại phía sau.

Ngày 7 tháng 4, ta khởi công phá đập. Chờ lúc nước ròng, ta vét bùn trong các thuyền nhận chìm. Người An nam nhận chìm ghe nhưng đục lỗ quá cao không đục ở đáy, nên khi vét hết bùn thuyền lại nổi, thủy triều dâng lên thì thuyền trôi đi. Công việc phá đập nặng nhọc hơn các ngày hôm trước nhiều, nước ngập lên đến vai, đầu ló ra khỏi nước thì trời nóng như thiêu như đốt. Bộ binh nhiều người bị dịch tả: thủy quân đã bị dịch tả từ mấy ngày trước rồi. Càng ngàng càng phải huy động thêm bác sĩ cho đoàn viễn chinh; những người lính đánh bộ không bao giờ quên sự tận tâm của các bác sĩ Champenois và Azaĩs; bên thủy quân có bác sĩ Dugé de Bernonville. Ngay khi đến đập thứ bảy đã có đến 150 quân sĩ bị bịnh phải di tản: mỗi người một bịnh đòi hỏi phải săn sóc khác nhau; y tá cũng thiếu, bọn cu li Tàu bị dịch tả phải tự xoa bóp cho nhau. Nhiều tàu sa-lúp móp méo dưới móng ngựa từ khi còn ở Peh-tang bên Tàu bây giờ lại tệ hơn, bị thủng đáy và nước tràn vào; phần lớn các ghe thuyền cướp được của quân An nam cũng bị nước vào. Xác của quân lính ta thâm đen vì tai ương dịch tả, tạm thời đặt ở gầm tàu, cứ mỗi lần tàu bị chòng chành thì đè lên người sống. Thật quả là những trạm cứu thương quân y hết sức thảm thương. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ mà trung úy hải quân Vicaire đã thấy trên chiếc sa-lúp Loirenăm người trút hơi thở trước mắt mình. Hạm trưởng và sĩ quan trên tàu Monge tiếp tục chỉ huy thủy thủ phá đập, đây là số quân lính duy nhất từ khi khởi sự phá đập đến nay mà vẫn còn đứng vững. Trong số thủy thủ đoàn của tàu Mongenhiều người đã chết, người nào còn sống sót chắc lâu lắm mới đủ sức hồi phục. Vị chỉ huy Bourdais bị sốt; những hôm gần đây ai cũng thấy ông suy yếu rõ. Ông thường xuống xuồng nhỏ để huy động, nếu thấy quân lính chèo xuồng lơi tay vì mệt lã thì ông quay sang người cầm đầu bọn lính chèo mà nói rằng: ‘’Bảo họ cố gắng lên, tao sẽ đề nghị gắn huân chương cho mày’’. Cứ như thế mà ông thúc họ cố gắng thêm Vị chỉ huy Bourdais, người điều động lính chèo và năm anh chèo xuồng người nào cũng ngất ngư như sắp chết. Vào một buổi chiều, khi đập thứ chín đã phá xong và sức chịu đựng đã cùng cực, người ta để ý thấy có một vài người Pháp và người Tagal bắt đầu than phiền.

Trong hai ngày gánh chịu cực nhọc và thương vong để phá đập, các pháo hạm bằng sắt đã vượt được khúc kinh bị chận để gặp đám bộ binh chiếm đồn An nam còn đang đóng quân để chờ. Kinh Bưu điện đổi hướng một cách bất ngờ tại vị trí này. Một khuỷu sông rất gắt làm kinh xoay hướng, cách đó vài trăm thước kinh lại đổi hướng một lần nữa cũng rất gắt làm cho Rach-run-ngu trở lại hướng bắc nam như trước.

Bọn gián điệp mà ta tra hỏi cho biết trước khi đến My-thô còn có một đồn quan trọng nữa trên kinh Bưu điện. Sau khi xác định vị trí của đồn, quân ta chọn chiến thuật như sau: dùng cu li mang vài khẩu đại pháo bọc hậu để bắn vào phía sau đồn, trong khi đó hạm đội sẽ tấn công vào mặt trước. Ngày 9 tháng tư, nhóm quân sĩ tăng viện cuối cùng đã đến nơi và nhập hết vào đạo quân viễn chinh đánh My-thô; pháo hạm số 20 (hạm trưởng Gougeard) vừa đến cũng tháp tùng theo các pháo hạm số 18, 31, 16, để tiến lên dẫn đầu. Ðạo quân trên bộ tiến dọc theo kinh Bưu diện. Ðiểm tập họp của hạm đội và quân trên bộ là cửa một con kinh nhỏ đổ vào Rach[8]

Các pháo hạm tới điểm tập họp nhanh chóng. Nhưng cả đoàn quân trên bộ lạc đường. Tên dẫn đường An nam cố tình đánh lạc hướng đoàn quân hay chính anh ta bị lạc cũng không biết, hoặc có thể anh ta cũng không hiểu quân ta muốn gì. Việc di quân hết sức cực nhọc, vì đoàn quân lọt vào một vùng toàn ruộng, kinh rạch chằng chịt, rừng thưa rải rác[9]Gần các bờ rạch, đất ướt sũng và mềm vì nước thủy triều lên xuống; bên trong, cách bờ một chút, thì người An nam theo tập quán đào dẫn mương rãnh khắp nơi, rễ cau bò ngập trong mương; quân lính ta chịu thua, lanh quanh không tiến lên được. Cả đạo quân phải nhắm chừng mà đi không hay rằng lạc hướng, càng đi càng xa con kinh Bưu diện, sai một góc đến 30 độ. Bỗng quân ta gặp một ngôi làng có rất đông quân lính An nam. Quân Pháp liền dàn ra chuẩn bị đánh nhau, trong khi đó quân địch lại rút lui mất hết. Quân ta liền chiếm làng chẳng phải đánh gì cả. Ta xem lại thì thấy ngôi làng nằm đúng trên con rạch mà cửa rạch là nơi tập họp; làng chứa đầy súng, lao và quân dụng. Quân ta biết cửa kinh là điểm tập họp nhưng cửa kinh còn cách bao xa thì thật khó tính cho ra; đúng tên dẫn đường đánh lạc hướng quân ta rồi, phải cẩn thận có thể lọt bẫy. Quân ta lại tiến lên hy vọng tìm được một nơi tạm ổn để cắm quân. Nhưng cả đoàn lọt vào một vùng đầm lầy, hố mương chằng chịt, cỏ mọc bít bùng; địa thế vừa nguy hiểm, lại vừa không giữ được trọng trách giao phó là yểm trợ cho đoàn pháo hạm.

Quân ta tiến lên lại vô tình lọt vào cạnh ngay đồn địch mà ta đang lùng tìm để đánh; bọn gián điệp bảo thế; trung tá Allizé cũng có linh cảm như thế. Quân ta liền quay lại đường cũ và cắm quân trong ngôi làng vừa rồi. Ít ra là nơi đây, dựa vào con rạch ta có thể để liên lạc với hạm đội. Ðoàn quân cắm trại vừa xong thì đại đội 3 của đại úy Sénez được lịnh lên đường hộ tống một đoàn vận tải lương thực sắp đến; đại đội phải đi đêm mà không được nghỉ ngơi gì.

Vào khoảng mười một giờ tối (ngày 9 tháng 4), bỗng nghe thấy tiếng la và tiếng báo động của quân canh. Một vùng sáng choang đang di chuyển trên kinh Bưu điện. Trung úy hải quân Joucla trên tàu Echo, chỉ huy đoàn vận chuyển đạn dược và lương thực, liền nhảy xuống ghe nhỏ xáp đến phía đuôi các pháo hạm thông báo tình trạng nguy hiểm. Sau đó thì hướng ghe vào bờ kinh, nơi mà đoàn tàu vận chuyển đang tập họp, ông ra lịnh phải nhổ neo thật gấp. Nhờ nước lớn và chảy mạnh nên việc tách bến cũng nhanh. Ông tiến lên trước và kéo một thuyền hỏa công của địch. Trung úy Besnard, do trung tá Allizé đưa đi thám thính cũng kéo một thuyền hỏa công khác ra xa. Ðó là hai thuyền buồm chở đầy dầu; cả hai đều được khéo léo đưa vào một nhánh kinh nhỏ của Rach-run-ngu, thật là may phước. Hai thuyền hỏa công cháy rực, lửa sát tới mặt nước; cỏ và cây bị cháy nám cả một vùng rộng lớn. Phản ứng và hành động mau lẹ này làm cho hai trung úy hải quân Joucla và Besnard rất hãnh diện.

Nước trong kinh chảy mạnh khoảng hai hải lý, vì thế thật nguy hiểm. Các pháo hạm phải buộc giây vào nhau. Ngay đêm đó phải dựng một hàng cọc chắn bảo vệ các pháo hạm, và từ đêm hôm sau vị chỉ huy đoàn quân cứ tối đến là cho giăng xích sắt chận ngang kinh.

Ngày 10 tháng 4, từ mờ sáng, ta lại đổ đi tìm xem đồn địch ở đâu.

Một đoàn trinh sát do đại úy pháo binh du Chauffaut hướng dẫn (gồm bộ binh Tây ban nha, một đại đội bộ binh, một đại đội thủy quân đánh bộ) băng đồng mà đi. Tên dẫn đường An nam trước hết dẫn họ đi xéo qua phải; vì bị quân ta hối thúc quá và sau đó thì đánh hắn, hắn bèn đổi hướng đi và dẫn cả đoàn trinh sát của ta thẳng tới sát My-thô. Cả toán quân cải nhau huyên náo và hổn loạn; trong khi ấy bọn lính Tây ban nha gốc người Tagal và một chiếc ghe An nam hai bên bắn nhau vài phát. Ðoàn trinh sát lại quay về; trên đường bị một khẩu đại pháo không biết từ đâu bắn tới một quả: vài người trong đoàn cho rằng chổ đại pháo bắn ra tức đúng là đồn địch rồi: vài người khác thì cho rằng chưa chắc[10]Trung úy hải quân ( thuộc công binh) đề nghị dùng ghe đổ xuống Rach-run-ngu xem sao. Ghe bị bắn, nhưng tìm ra đồn và ông quay ghe ngược trở về. Việc dùng ghe thám thính như thế nguy hiểm lại chưa có phép của cấp trên. Vài nông dân cho biết rằng kinh không có canh phòng và các đồn đều di tản hết rồi.

Trinh sát thì quá mơ hồ, nhưng ta lại phải mang quân tiến lên. Trong tình thế này, vì không biết đích xác đồn ở đâu, nên ta cứ kể như đồn địch đã di tản hết chỉ còn lưu lại một ít pháo binh; vì thế vị chỉ huy du Quillo cho lịnh trung tá Bourdais cứ tiến đánh My-thô. Ông chỉ thị cho trung tá Bourdais phải hết sức cẩn thận và cũng cho ông này biết là sáng nay ta vừa bị một phát đại pháo nhưng không biết ở đâu bắn tới. Trung tá Bourdais dẫn ba đại đội quân tăng viện, bộ binh, thủy quân, thủy quân đánh bộ tiến về Mỹ-thô, tất cả là ba trăm người. Họ có lịnh khi gần đến My-thô còn độ hai ngàn thước thì dừng lại chờ đạo quân viễn chinh đi sau. Vào ba giờ chiều, các toán quân của trung tá Bourdais xuống tàu sa-lúp, phía trước là các pháo hạm: cả đoàn lên đường, pháo hạm số 18 dẫn đầu mang cờ hiệu của trung tá Bourdais; tiếp theo là các pháo hạm 31, 22, 16. Pháo hạm 20 bỏ neo ở lại không theo đoàn tàu._Một lúc sau có lẽ chính đồn địch mà ta tìm kiếm từ hai ngày nay (đồn thứ năm) bắt đầu nổ súng. Các pháo hạm của ta cứ nhắm hướng phỏng chừng mà bắn trả, rồi tiếp tục tiến lên. Ta vẫn không biết đính xác đồn địch ở đâu hết. Bất thình lình, đồn hiện ra ngay trước mặt chỉ cách bốn trăm thước, đúng vào một khúc quanh của con kinh. Pháo hạm số 18 đi đầu có mang cờ hiệu của trung tá Bourdais bắn một quả đạn. Ðồn An nam liền bắn trả ba quả, ba quả đạn An nam đều có hiệu lực. Một rớt lên tàu, một làm bị thương một quân lính của ta; quả thứ ba làm bay mất quả tim và cánh tay trái của trung tá Bourdais. Tức thời pháo hạm 18 vọt lên, theo sau là pháo hạm 31. Cả hai được các pháo hạm 16 và 22 dàn ra yểm trợ. Bốn đại pháo nòng 30 có khía phóng đạn liên hồi vào đồn An nam. Ðồn bị lủng nát, quân phòng ngự bỏ đồn rút lui. Quân Pháp liền chiếm đồn._Kể từ lúc đó kinh Bưu điện được hoàn toàn khai thông.

Như vậy là đường My-thô được khai thông bằng cái chết của đại úy hải quân Bourdais. Quân sĩ đều phát lộ niềm xúc cảm khó tả, lẫn lộn giữa chiến công và mất mát: thôi ta cứ để những xúc cảm đó gắn bó với nhau. Sức mạnh của xúc cảm làm cho mọi người phải bật lên tiếng kêu Trời; nhưng rồi từ từ cũng lắng xuống. Người ta phủ lên xác của ông một lá cờ để làm vinh danh ông, và cũng có thể là để che cảnh tượng khủng khiếp đừng cho những người còn đang chiến đấu phải nhìn thấy. Khi thu nhặt các phần thi thể, ta tìm được cánh tay của ông, nhưng trái tim thì tìm không thấy. Trong suốt tám ngày trước đây, ngày nào ông cũng phá được một đồn hay san bằng một đập. Ông tiến lên, xô ngã những chướng ngại trước mặt bằng cánh tay lúc nào cũng nôn nóng, những cảnh chết chóc và hấp hối không làm sờn lòng hay nhụt chí của ông. Ðó là hình ảnh của cuộc đời ông. Ông chưa đầy bốn mươi tuổi; và vừa thăng chức đại úy thuyền trưởng đại chiến hạm trong vinh dự, trong cái tuổi mà người khác còn trong cấp bực thứ yếu. Không phải vì thiếu sĩ quan mà ông đã được thăng cấp, tiếng vang từ Paris cho biết: chính tiếng nói của chỉ huy trưởng và của cả đoàn quân viễn chinh đã đem đến cho ông cấp bực ấy. Nhưng ông đã ngã xuống khi vừa thấy đích, trợt chân trên một vũng máu. Chúng ta phải sống. Ông ta không còn nữa. Chẳng có gì xảy ra cả.

Ðại úy hải quân Desvaux [11]nhận quyền điều khiển các pháo hạm thay thiếu tá [12]Bourdais. Tất cả đoàn quân viễn chinh còn lại từ từ di chuyển, đến sáng ngày 11 thì đến đồn thứ năm mà quân ta đã chiếm trước đây: đoàn quân lên tàu khi trời còn tờ mờ, quân lính trèo lên tàu rất mau và trật tự tại một nhánh kinh phụ. Hai đoàn trinh sát cho đi trước. Quân trên bộ bỏ hẳn bờ bên trái, đổi sang đi trên đường cái dọc theo bờ bên phải của Rach-run-ngu, đường dẫn thẳng về My-thô. Một trong hai đoàn trinh sát cho biết đồn Tam-léon (đồn thứ sáu) địch đã di tản hết: hai đại đôi bộ binh bèn chiếm lấy đồn. Tam-léon là một ngôi làng cách My-thô ba ngàn thước, nằm vắt ngang một con kinh nhỏ. Ðoàn trinh sát thứ hai do đại úy công binh Bovet hướng dẫn, gồm có bộ binh Tây ban nha và một đại đội lính đánh bộ, vượt qua ba con rạch nhỏ cắt ngang đường cái quan, rồi tiến đến gần thành địch, chỉ còn cách có hai trăm thước. Bắt đầu ngày 10 tháng tư cả đạo quân viễn chinh đã đến gần sát My-thô. Bỗng trong toán quân biệt phái trinh sát của đại úy Bovet nổi lên tiếng đôi co: chia làm hai phe cải nhau om xòm [13]Suốt phần còn lại trong ngày 11 tháng tư ta quyết định dành để tưởng niệm thiếu tá Bourdais [14], không hành quân nữa. Việc tưởng niệm một ngưòi chiến hữu thì toàn thể quân sĩ ai cũng cho là phải nhưng đã làm ngưng trệ việc hành quân: làm cho cả đoàn quân mất công đầu, tức là chiếm My-thô trước tiên. Chỉ chậm trể có vài giờ mà đành mất ưu thế: My-thô đã lọt vào tay chuẩn đề đốc Page.

Ðêm 11 tháng tư, lại có thêm quân bổ xung từ Saĩgon xuống nhập vào đoàn viễn chinh: vì ta chưa biết chắc là chỉ cần trở bàn tay để chiếm thành hay phải vây hãm lâu dài. Viện binh gồm có một đội pháo binh nòng 12 có ngựa kéo, phân đoàn 4 pháo binh mang theo ngựa và xe tải đạn, vì cho đến giờ này ta vẫn phải dùng sức người thay ngựa. Ngày 12 tháng tư, tất cả đạo quân đều tụ họp tại làng Tam-léon; tiền quân ta đóng cách thành địch chỉ có một ngàn năm trăm thước; trung úy Aigueparses chỉ huy toán tiền quân gồm năm mươi bộ binh đóng tại một bìa rừng cau và dừa, phía sau khu rừng dừa là thành phố My-thô. Ðường cái đã làm lại, tất cả các cầu cũng bắc lại. Ðoàn pháo hạm bỏ neo phía trước đạo quân một quảng ngắn, cách thành địch một ngàn năm trăm thước, pháo hạm bắn vào thành bẩy quả đạn súng cối có khía. Vào khoảng 11 giờ sáng, ta thấy một đám khói bốc lên ngay cửa vào tỉnh My-thô. _ Quân viễn chinh qua nhiều lần tăng viện, đã trở thành một lực lượng chín trăm người. Riêng dàn pháo binh, không kể đại pháo trên tàu sa-lúp và các ca-nô vũ trang, đếm được mười tám miệng lửa, trong số này có sáu súng cối._Ngày 13 tháng tư, đã biết rõ địa thế nên quân ta tiến lên:gồm công binh mang thang, súng cối miền núi, hỏa tiển, bốn đại đội thủy quân đánh bộ. Ta cũng bố trí để phòng hờ địch tấn công ta từ bên ngoài thành: bằng cách cho đại đội 4 bộ binh làm xung kích đi trước dò đường và tìm vị trí thuận lợi để tấn công. Trung tá du Quillio đang nghĩ cách ra tay đánh úp vào thành. Khi quân ta tiến gần khoảng cách chỉ còn bằng tầm đạn của địch thì lại thấy cờ tam sắc phất phới trên tường thành từ lúc nào rồi. Ngày hôm sau, 14 tháng tư, quân sĩ mới kéo vào bên trong thành.

Ðoàn chiến hạm của chuẩn thủy sư đề đốc Page, tiến từ cửa biển vào theo đường thủy mà ta đã khổ công dò tìm; hạm đội oanh liệt và gan dạ phá chông trên sông Cambodge dưới lằn đạn của địch tiến đến sát thành My-thô khoảng hai giờ sáng ngày 12 tháng 4. Thành đã bỏ trống, thủy thủ đoàn chiếm thành không phải nổ một tiếng súng nào cả.

Một mặt đoàn thám thính của ta sáng ngày 10 tháng 4 đã tiến đến thẳng trước mặt thành My-thô, một mặt đoàn pháo hạm cũng oanh liệt tiến lên làm cho quân địch mất tự tin; đến đêm 11 một đoàn trinh sát khác của ta lại xáp đến gần thành chỉ còn cách 200 thước, đồng thời trên sông Cambodge đoàn chiến hạm của thủy sư đề đốc Page cũng bắt đầu nhả đạn, người An nam bị áp lực ở mặt tiền tuyến và cả hậu tuyến. Họ rút lui.

Sự trùng hợp có vẻ bất ngờ của hai lực lượng xử dụng hai phương tiện hành quân khác nhau thật sự đã được nghiên cứu trước và chuẩn bị từ trước. Ngày 6 tháng 4, vị phó đề đốc Charner cho chỉ huy trưởng chiến dịch My-thô biết trước là có thể trông cậy vào một lực giúp sức hiện diện kịp thời trên sông Cambodge;’’Hai tàu LilySham-Rock, vắng mặt từ tám hôm nay, không theo đoàn quân chiến dịch My-thô; ý đồ của tôi là cho hai pháo hạm đi theo hai tàu này để cố tìm đường biển đưa vào sông Cambodge.’’._Vị chỉ huy trưởng phải chờ đến ngày 8 tháng tư mới có thể thẩm định được việc di chuyển của hạm đội trên sông Cambodge từ cửa biển vào và khả năng phòng thủ của địch hai bên bờ. Trên bờ đạo quân viễn chinh cũng tỏ ra đang thắng thế và sắp tiến đến gần My-thô. Lúc này chính là lúc có thể phối hợp hai đạo quân: một từ biển vào và một do chỉ huy du Quilio dùng sông rạch để đem quân đến My-thô Vì vậy trong ngày 8 tháng tư phó thủy sư đề đốc Charner đưa các lời huấn thị như sau cho chuẩn thủy sư đề đốc Page còn đang đóng quân gần Bien-hoa:

‘’Tôi giao cho ông hai tàu LilySham-Rock, sau khi thăm dò sông Cambodge xong sẽ bất thần quay về Saĩgon để được tiếp tế.

‘’Ông có thể trương cờ hiệu của ông trên bất cứ chiến hạm nào trong đoàn chiến thuyền mà ông thích: trên chiến hạm Fusée, Lily, Sham-Rock, hay cả trên chiếc Dragonnecũng được, tàu này hiện đang giữ vị trí tiền quân của ta.

‘’Ông phải hành động cẩn thận, ông phải hết sức nỗ lực theo đường biển ngược sông Cambodge để đánh My-thô, trong khi đó trên bộ đoàn quân viễn chinh sẽ ngược Rach-run-ngu đánh liên tục vào thành.

‘’Tôi tiếc rằng, ngoài số quân và chiến hạm sẵn có, tôi không thể giao cho ông hơn nữa. Ðiều tối quan trọng dưới mắt tôi là kết quả trận này có thể tháo gở cho hoàn cảnh khó khăn của ta hiện nay. Hạm đội của ông xuất hiện trên sông Cambodge chắc chắn sẽ đánh lạc hướng quân địch, góp phần làm cho My-thô mau xụp đổ và làm cho quân thù phải sớm điều đình.’’

Chuẩn thủy sư Page rời Bien-hoa ngày 10 thang 4, vào 10 giờ sáng, bằng tàu Fuséedo đai úy Bailly điều khiển. Theo sau có tàu LilySham-Rock. Ông vượt các bãi cạn ở cửa sông Cambodge, gần đó có tàu Dragonnedo đại úy Galey đang thả neo làm tiền đồn; đại pháo hạm Dragonnecũng tháp tùng theo dẫn đầu và chỉ đường cho cả hạm đội. Vào hai giờ sáng thì hạm đội thả neo cách đập thứ nhất 400 thước. Thật may mắn cho ta đêm tối đen chưa từng thấy, không có một ánh sao nào trên trời, ta phá cọc và cừ để lấy đường cho tàu; trong khi đó các đồn địch bắn loạn xạ. Sáng ngày 11, hạm đội ngược sông Cambodge bằng nhánh phía nam nhưng lại phải ngừng lại nơi đầu một hòn đảo vì có đập chắn; hòn đảo chia sông thành hai nhánh (nhánh nam và nhánh bắc). Hai bên đập có đồn canh giữ, mỗi đồn có 18 khẩu pháo. Ngày 12 tháng tư, đoàn tàu nã pháo vào hai đồn, đồng thời phá cừ cọc để đi. Vào một giờ rưỡi trưa, hạm đội thả neo trước thành My-thô chỉ cách thành có 200 thước; nhưng thành My-thô đã di tản trước đó ba giờ đồng hồ rồi. Thủy thủ đoàn của hạm đội do trung úy hải quân Desaux hướng dẫn chiếm thành và thượng cờ tam sắc. Ðạn súng cối do cánh quân trên bộ của ta phóng vào thành trong các ngày 12 và 13 tháng 4 may mắn không trúng quân sĩ nào của ta trong thành.

Sông Cambodge nằm vào mặt nam của thành phố My-thô, sông Run-ngu nằm bên phía đông. Ðối với kinh Bưu điện thì thành phố nằm trên hữu ngạn. My-thô là một vùng nhà cửa rộng lớn, nhà lợp bằng lá dừa lùn theo tập quán của người An nam, nhìn xa giống như nhà lợp rơm của ta. Bộ mặt chung của thành phố có vẻ nghèo nàn; nhưng dọc theo kinh Bưu điện thì nhà cửa có vẻ thanh nhã một cách đáng nể; nhà xây cất theo lối nông thôn, nối nhau liên tục, mái lợp ngói nổi bật trên những vùng trồng dừa và cau, tất cả cho thấy vẻ phong lưu, thỉnh thoảng vài nhà tỏ ra thật giàu có. Ta chỉ có thể dùng cảnh hào hoa của Cho-quan và kinh Tàu mới có thể so sánh được cảnh tượng hai bên bờ Rach-run-ngu mà thôi. Cây dừa ở đây to lớn hơn các cây ta thấy ở Saĩgon: quân viễn chinh đánh My-thô uống thật là đã khát.

Thành My-thô xây cất theo lối Âu-châu. Thành vuông vức có ụ làm pháo đài. Hào chung quanh rộng có nước; tường thành cao rất dầy. Vài nơi chung quanh thành là đầm lầy, vì vậy sức phòng thủ do công trình nhân tạo còn có thiên nhiên hỗ trợ nữa. Khí giới của thành My-thô thì có đại pháo nòng lớn. Thành kiểm soát hết sông Cambodge và các đường thủy đổ vào sông này. Do đó thành có một vị trí chiến lược quan trọng. Hơn nữa My-thô còn là vựa thóc lại vừa là thị trường lúa gạo quan trọng của cả đế quốc An nam. Nếu trong mùa mưa mà đánh thành My-thô khi có thêm ba tỉnh miền nam hỗ trợ, thì quả thật ta không thể nào đánh nổi.

Vị phó vương của sáu tỉnh, trước khi bỏ thành, thả hết người thiên chúa giáo, ông nói với họ rằng ‘’Hãy cứ đi theo các bạn người Pháp của quý vị’’. Ðó là một gương nhân từ mà về sau cả người An nam và kể cả kẻ thù của người An nam tức là người Pháp chúng ta không ai làm nỗi. Ông cho đốt hết các kho nhà nước,và cả các xâu tiền kẽm. Ta chẳng còn vớt vát được gì.

Gạo cháy dở dang bán giá rẻ mạt chỉ để nấu rượu gọi là sam-chou[15], một loại rượu trắng của người An nam. Tiền kẽm chỉ có giá khi còn bó lại thành xâu. Buộc lại thì công nhiều lắm, vì thế tiền mất hết giá. Tại các ụ đóng ghe ta cướp được vài thuyền quan thật đẹp bằng gỗ giá tị là một loại gỗ rất quí. Ta liền tu sửa các ghe cướp được, trang bị khi giới, đem tăng cường cho hạm đội của ta.

Quyết định của địch quân rút bỏ thành My-thô làm cả đoàn quân tăng viện do chỉ huy trưởng viễn chinh đưa từ Saĩgon xuống trở nên vô ích. Tóm lại tất cả cuộc hành quân chỉ gồm có giai đoạn chuẩn bị chớ không đánh đấm gì cả, thôi cũng là chuyện may. Tin thắng trận My-thô đến tai của vị chỉ huy trưởng và đại tướng de Vaissoigne khi hai ông thân hành đi thăm mặt trận Mỹ thô. Chiến thắng giúp cho vị chỉ huy có thể lần lượt phân phối đưa quân đội giữ nhiệm vụ ở các nơi khác, Quân lính hầu hết là quân tình nguyện. Trước khi thành My-thô mất đã có vài đám mưa rào báo hiệu mùa mưa đã tới, mưa gây ra tình thế càng ngày càng khó khăn hơn, có vẻ như muốn cho thấy là ý kiến của những người trước đây chống lại việc tiến đánh My-thô là có lý. Thư từ quân lính gửi đi theo từng chuyến định kỳ, tức ngày 11 tháng 4, chắc phải nhắc tới việc này. Nhưng thành My-thô lại mất quá sớm vào ngày 12 tháng tư; vì thế khi tàu đưa thư Échođến Singapour thì trong số thư chống lại việc tiến đánh My-thô cũng có cả thư báo tin chiến thắng thành My-thô gửi về Pháp.

Ðề đốc thủy sư cử một sĩ quan đóng tại My-thô đại diện cho ông ở đây: trước khi rời My-thô ông hoạch định cho vị sĩ quan này những gì phải làm và những gì không nên làm.’’ Quyền lực của ông là quân binh, hành chính và chính trị. Ông đừng quên là kẻ thù còn trước mặt: vậy phải bảo trì pháo binh và bộ binh. Vùng lãnh thổ tứ giác giữa các sông Cambodge, Bưu diện, Thương mại và khúc sông Vaĩ-co tây là do quân ta chiếm cứ. Dân chúng sẽ được thông báo về việc thành lập lãnh thổ ta bằng một tuyên cáo. Ðối với người dân lương thiện ông áp dụng sự công minh, khoan dung và nhã nhặn. Ông chống lại cướp bóc để che chở họ. Ông không nên tìm cách tự ý bành trướng việc chinh phạt của người Pháp. Dân chúng ở phía bắc vùng tứ giác ta nên xem như đồng minh hơn là kẻ thù. Giải hết tù về Saigon. Chuyển hết thương mại về Saĩgon. Saĩgon phải là trung tâm thương mại duy nhất của ta.’’ Nhờ sự tín cẩn đặc biệt của thủy sư đề đốc đối với mình nên đại úy hải quân Devaux mới được giao những trọng trách lớn lao như vậy trong suốt mấy tháng đầu tiên sau khi chiếm My-thô. Phó thủy sư đề đốc chỉ huy trưởng, trước khi quay về tổng hành dinh ở Saĩgon, đã giải quyết hết những gì liên hệ đến việc phòng thủ My-thô: bốn trăm người đóng giữ thành. Ðại pháo của hải quân thì đem dùng trang bị cho thành mới chiếm.

Toàn thể pháo binh đánh bộ trở về Saĩgon, quân sĩ pháo binh trở lại đóng chỗ cũ trong thành phố Tàu và dọc theo các chùa như trước kia để chờ qua hết mùa mưa. Tình trạng sức khoẻ của quân lính đi đánh My-thô suy xụp một cách nghiêm trọng; vào cuối tháng tư, các bịnh viện chật cứng bịnh nhân sốt rét và thổ tả. Trong lúc đánh nhau con người sống một đời sống giả tạo: khi nghỉ ngơi, ta cứ tạm cho như vậy, thì sự thực lại trở về với họ, vi trùng của tinh thần và thể xác phát sinh và bành trướng: tình thần buồn nản, xác thân rã rời. Mùa mưa thật sự đến rồi, cả Nam kỳ miền nam biến thành một vùng đầm lầy mênh mông. Bầu trời mất hết vẻ trong sáng: từng chập trời đổ mưa như thác. Chỉ có cảnh xanh tươi của miền nhiệt đới là tồn tại, ngoài ra chẳng có gì khác hơn là màu tối tăm của mưa dông đầy trời. Mùa màng thay đổi trên quê hương ta hình như cũng phù hợp với bản tánh dễ biến đổi của ta. Nơi xứ Nam kỳ y trang muôn thuở của thiên nhiên, lúc nào cũng như nhau, tạo cho ta một nỗi buồn thảm vô biên[16]Dịch tả vẫn hoành hành: nạn nhân vẫn lẩn quẩn trong đám quân đi đánh My-thô. Vị chỉ huy tiểu đoàn của công binh là Allizé de Matignicourt chết liền sau khi ngã bịnh có hai ngày. Thế là kỳ viễn chinh sau hết đã làm thiệt mất hai vị sĩ quan lớn. Trung tá Bourdais bị quân thù giết; trung tá Allizé, kém may mắn hơn không có cái vinh dự đó, đã bị dịch thổ tả mang đi. Dịch tả trong mười lăm ngày đã gây chết chóc nhiều hơn là đại pháo và súng bắn trong một trận hỗn chiến.

Ðám táng của ông là một tang lễ thật lớn. Gần như tất cả sĩ quan của toàn thể đạo quân viễn chinh đều hiện diện: công binh, pháo binh, thủy quân, bộ binh, thủy quân đánh bộ, các cơ quan bịnh viện đều có cử người đại diện. Ðoàn người đưa đám chật ních cả nghĩa trang của người An nam, mà bây giờ đây đang chôn đầy người Pháp. Mười hai cái hố đào sẵn ở nghĩa trang ngập nước do cơn mưa từ tối hôm qua, mưa đã biểu lộ sự đau đớn của mình bằng màu nước hòa với chất sét trong đất trở nên đỏ như máu. Gió mùa tây-nam lộng hành mang đến cho bầu trời những đám mây màu chì: một cảnh nữa đêm nữa sáng bao phủ mặt đất, buồn thảm hơn cả một ngày nhật thực. Mưa trút như thác đổ: hình như có sự giận dữ nào đó đã vơ hết mưa gió để ném xuống mặt đất từng mảng lớn[17]_ Những nỗi niềm chán nản và yếu mềm đã thấy xuất hiện trong nhóm dân đi chiếm thuộc địa. Mục đích của chúng ta trở nên tối tăm: ta tự hỏi biết bao nhiêu nhân mạng phải hy sinh để được lợi ích gì đây? Chung quanh ta đều thiếu thốn tất cả, thiếu cả trời cả đất; xem kìa những lỗ huyệt há hốc sẵn sàng chờ đón ta, khép kín bạn hữu của chúng ta, giống như những tiếng điểm danh của con Quái vật sẵn sàng ngấu nghiến chúng ta. Ta chỉ biết khẩn cầu và chờ đợi một tiếng nói vương lên giúp ta sức mạnh và chịu đựng để chống chỏi với những tại họa này. Bỗng có một người bước ra [18], tiến đến bờ huyệt cất lên những lời nói đó:

‘’Thưa quí vị, người ta nói rằng mãnh đất này, để trả thù cho việc xâm lược của ta, đã nuốt sống cái tinh khiết nhất của dòng máu chúng ta. Chính vì thế, mà chúng ta đã nhìn thấy tận mắt những vị chỉ huy của quân đoàn nổi danh đã ngã xuống, như Labbé, Deroulède, Livet; và ngày hôm nay một lỗ huyệt mở ra để đón phần thân xác của trung tá Allizé.

‘’Cái chết của trung tá Allizé là một cái tang chung. Các vị chỉ huy của ông tôn vinh ông vì kiến thức rộng rãi của ông và sự can trường vững chắc của ông; thuộc hạ của ông thương mến ông vì tính tình nhã nhặn của ông. Ông đã đem đời mình đóng góp cho công cuộc đánh chiếm My-thô: sự hy sinh đời sống cao cả của ông làm cho chúng ta vững tâm hơn là làm cho chúng ta xao xuyến; sự hy sinh này rồi đây sẽ làm nẩy nở được chăng công trình mà tất cả chúng ta bắt buộc phải làm!’’



[1]Arroyo de la Poste: trong nguyên bản, (ghi chú của người dịch).

[2]Trong các bản đồ mới nhất ghi là Rach-vung-ngu, (ghi chú của tác giả).

[3]Arroyo Commercial : trong nguyên bản, (ghi chú của người dịch).

[4]Arroyo Chinois : trong nguyên bản, (ghi chú của người dịch).

[5]Chính phó thủy sư đề đốc Charner chỉ huy trận đánh My-thô

[6]Một đại đội thủy quân đổ bộ, đại đội 7, đại úy Galache điều khiển; hai súng cối nòng 16 và 200 quảđạn cho mỗi khẩu, trung úy pháo binh Savilly trách nhiệm diều khiển; hỏa tiển chiến thuật ; 1 tàu sa-lúp trang bị một súng cối nòng 15 do trung úy hải quân Vicaire điều khiển; pháo để phá các đập chắn; các tấm tôn để sửa chữa các pháo hạm bằng sắt bị thủng. Trung úy hải quân Delassaux, giữ vai trò quản lý đạo thủy quân đổ bộ đi cùng tàu với vị chỉ huy là Desvaux.

[7]Ðon vị đo chiều dài khoảng hơn 30 cm, (ghi chú của người dịch).

[8]Tức Rach-run-ngu (ghi chú của người dịch).

[9]Xem bảng hình 3, nơi nào có cây cối đều vẽ rõ, phần còn lại là ruộng.

[10]Sau này người ta mới biết rằng cỗ đại pháođặt tại một ụ đóng ghe của tỉnh My-thô, (ghi chú của tác giả). Cách mô tả cho ta thấy là tác giả hiện diện trong nhóm trinh sát này, (ghi chú của người dịch).

[11]Cấp bực của Bourdais là capitaine de vaisseau, cấp bực của Desveaux là capitaine de frégate, vaisseau là đại chiến hạm, frégate là hộ tống hạm hay chiến hạm cở nhỏ ba cột buồm,(ghi chú của người dịch).

[12]Trong ngành hải quân thường có thói quen tăng cấp chỉ huy lên một bậc, (ghi chú của người dịch).

[13]Ðây là cách viết nữa chừng của tác giả : quân sĩ chia làm hai phe, một phe muốn làm đám tang cho thiếu tá Bourdais, một phe muốn tiếp tục tiến quân, (ghi chú của người dịch).

[14]Ðồn nơi đại úy đại chiến hạm Bourdais gục ngã được đặt tên là đồn Bourdais, theo chỉ thị của tổng tư linh viễn chinh. Xác của vị chỉ huy Bourdais được mang về My-thô.

[15]Người dịch không đoán ra được tiếng An nam thật sự viết như thế nào, (ghi chú của người dịch).

[16]Trời mưa tác giả nhớ nhà, (ghi chú của người dịch).

[17]c giả tả mưa ở một xứ nhiệt đới rất tài tình, lại phù hợp với hoàn cảnh chết chóc và tâm trạng của người lính viễn chinh. Quả thật là khéo, (ghi chú của người dịch).

[18]Ta có thể đoán người này chính là tác giả? Ông không bao giờ để lộ cái tôi của mình qua suốt quyển sách, ta phải chú ý lắm mới thấy hình bóng và ý tưởng của tác giả phía sau những câu chuyện và những lời mô tả. Quả thật là tài tình. Những lời phân ưu bóng bẩy và sâu sắc trước lỗ huyệt của trung tá Allizé lại càng làm cho ta tin hơn chính lànhững lời của tác giả.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2010(Xem: 16315)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập.
15/11/2010(Xem: 6549)
Năm 938 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng kết thúc 1000 năm Bắc thuộc, bắt đầu thời kì tự chủ tiến tới xây dựng nền độc lập cho nước ta. Tuy nhiên tinh thần độc lập của nước Việt không phải bắt đầu từ sau chiến thắng ấy, mà nó đã tồn tại trong suốt thời gian Bắc thuộc, được thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa của bà Trưng, bà Triệu cho đến Phùng Hưng, rõ ràng tinh thần quyết dành độc lập của dân Việt luôn được nuôi dưỡng, chắn chắn đó là đề tài luôn được người dân Việt bàn bạc sau lũy tre làng, trên những cánh đồng hay trong những câu chuyện đêm đêm bên bếp lửa. Tuy nhiên do chưa có một nhà nước để thống nhất các lực lượng, nên đã có nhiều nhóm hoạt động chứ không phải chỉ có phe nhóm của Ngô Quyền,
11/10/2010(Xem: 6308)
Hạnh phúc tôi nhỏ nhoi Một góc đời xa lạ Như một thoáng môi cười Ngọt ngào xanh mắt lá.
05/10/2010(Xem: 5319)
Lam Sơn Thực Lục_Nguyễn Trãi biên soạn - Lê Thái Tổ đề tựa
03/10/2010(Xem: 8915)
Thiên Thai giáo quán tông, Thiên Thai một tông chuyên xiển dương Kinh Pháp Hoa. Theo Ngài Trí Giả, sách Quán Tâm luận ghi rằng, đảnh lễ Thầy Long Thọ. Nghiệm đó để biết rằng Trí Giả xa bái Long Thọ làm sơ Tổ; gần thời bẩm bái Huệ Văn - Bắc Tề, làm tổ thứ hai; Huệ Văn truyền xuống Nam Nhạc Huệ Tư, là tổ thứ ba. Huệ Tư truyền cho Trí NghiễmĐức An (Trí Giả), Trí Giả là tổ thứ tư. Lấy nhất niệm hoằng truyền 3 nghìn cõi, trong viên mãn thực hành giáo quán, dù trải qua ở quan quyền, nhà giàu sang v.v… những lợi lộc, nhưng quy về gốc Thiên Thai ở Quốc Thanh, nên gọi là Tông Thiên Thai.
26/09/2010(Xem: 6476)
Phật Quốc Ký Sự
07/09/2010(Xem: 5168)
Việt điện u linh tập" được viết ra trong một thời đại xa xưa nên không khỏi mang những hạn chế do điều kiện lịch sử... Cuốn sách chứa đựng thế giới quan thần bí, mang tư tưởng thần linh chủ nghĩa trộn lẫn với ý thức hệ phong kiến... Tuy nhiên, nếu tước đi cái vỏ tôn giáo thì đằng sau câu chuyện của các thần linh lại bao trùm và phản ánh những lý tưởng tốt đẹp và niềm tin tưởng chân thành của nhân dân ngày xưa. "Truyện Quảng Lợi Đại Vương" (tức Thần Long Độ) là một thí dụ tiêu biểu. Ở đây tín ngưỡng chỉ là cái vỏ mà nội dung chính là ý thức phản kháng, sức mạnh quật cường của nhân dân Việt nhằm chống lại những âm mưu quỷ quyệt của Cao Biền, một viên quan đô hộ đến từ Trung Quốc... Ngoài ra còn có thể kể đến "Truyện Bố Cái Đại Vương" (tức Phùng Hưng), "Truyện Trương Hống, Trương Hát", v.v...Đây đều là truyện kể về việc thần linh đời trước đã "hiển linh" để "phù trợ" các anh hùng đời sau chống quân xâm lược như thế nào... Như vậy, mặc dù còn hạn chế, "Việt điện u linh" tập vẫn có giá tr
30/08/2010(Xem: 9461)
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư_Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên--Đại Việt sử ký toàn thư (chữ Hán: 大越史記全書), đôi khi gọi tắt là Toàn thư [cần dẫn nguồn], là bộ quốc sử viết bằng văn ngôn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê. Bộ sử này được khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà năm thứ 18, triều vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697. Nó là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử quán triều Hậu Lê biên soạn.
10/03/2010(Xem: 7757)
Lời BBT: Trong bài "Định hướng tương lai với thế hệ Tăng sỹ trẻ"của Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, nói với Tăng Sinh Thừa Thiên Huế hơn một năm trước đây, trong đó Thượng tọa đã kể lại một vài chi tiết mà thiết nghĩ chúng ta ngày nay đọc lại không tránh được nỗi trạnh lòng khi nghĩ về Ôn Già Làm, bằng tâm Từ Bi vô lượng và hạnh nguyện Nhẫn Nhục Vô Úy bất thối.
20/10/2003(Xem: 30991)
Tình cờ tôi được cầm quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của Mặc Giang do một người bạn trao tay, tôi cảm thấy hạnh phúc - hạnh phúc của sự đồng cảm tự tình dân tộc, vì ở thời buổi này vẫn còn có những người thiết tha với sự hưng vong của đất nước. Chính vì vậy tôi không ngại ngùng gì khi giới thiệu nhà thơ Mặc Giang với tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca. Mặc Giang là một nhà thơ tư duy sâu sắc, một nhà thơ của thời đại với những thao thức về thân phận con người, những trăn trở về vận mệnh dân tộc, . . . Tất cả đã được Mặc Giang thể hiện trong Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trong sáng và xúc tích, tràn đầy lòng tự hào dân tộc khi được mang cái gène “Con Rồng Cháu Tiên” luân lưu trong huyết quản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567