Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tại Sao Phật Giáo Suy Tàn Ở Ấn Độ?

18/06/201818:58(Xem: 11067)
Tại Sao Phật Giáo Suy Tàn Ở Ấn Độ?

bodedaotrang-11-s
Vì sao Phật giáo suy tàn ở Ấn độ?

 

 

Theo học giả Sthiti Das, có 12 nguyên nhân chánh như sau:
 

1) Giáo đoàn đồi trụy

 

Theo thời gian, phần nhiều các giáo đoàn Phật giáo trở nên đồi trụy. Tăng lữ và tín đồ đã biến chất thành xa hoa và hưởng thụ. Họ tích trữ của cải và vàng bạc, trở nên tham lam và đua đòi vật chất. Rồi họ sống đời vô kỷ luật. Gương xấu và nếp sống bê tha của họ khiến cho dân chúng chán ghét. Người ta không thích đạo Phật nữa.

 

2) Ấn giáo Canh tân

 

Phật giáo đã giáng một đòn mạnh vào Ấn giáo. Trước viễn ảnh tuyệt chủng, Ấn giáo bắt đầu cải cách. Họ bỏ bớt hệ thống lễ nghi rườm rà để làm cho Ấn giáo đơn giản và hấp dẫn hơn. Họ nhìn nhận Đức Phật là một vị thần của Ấn giáo, kể cả chấp nhận thuyết "Bất Hại" của Phật giáo. Điều nầy lấy đi hương thơm của đóa hoa Phật giáo. Và làm cho sự suy tàn của Phật giáo là điều không thể tránh khỏi.

 

3) Chia rẽ trong hàng ngũ tín đồ.

 

Thỉnh thoảng có sự chia rẽ trong hàng ngũ tín đồ Phật giáo. Nhiều môn phái xuất hiện như Tiểu thừa, Đại thừa, Mật tông, Đại thừa Cải cách vv..làm cho Phật giáo mất đi tính thuần túy. Ảnh hưởng của Mât phái (Tantrism) làm cho người ta chán ghét. Phật giáo không còn đơn thuần và trở nên phức tạp, đủ làm cho người ta xa lánh. Và sự suy tàn của nó chỉ là vấn đề thời gian.

 

4) Sự áp đặt Phạn ngữ

 

Tiếng Pali và Prakrit là ngôn ngữ của đa số dân Ấn Độ, là phương tiện để phổ biến giáo pháp của Phật. Thế nhưng Phạn ngữ đã thay thế chúng trong kỳ Kết tập lần IV dười thời Hoàng Đế Kaniska. Phạn ngữ là thứ tiếng khò hiểu trước đó đã gây ra sự suy tàn của Ấn giáo. Bây giờ, khi Phật giáo dùng thứ tiếng đó, ít người có thể hiểu đươc. Nên họ đã xa rời kinh sách Phật giáo.

 

5) Sự thống trị của Bà-la-môn giáo

 

Theo thời gian, tín ngưỡng Bà-la-môn giáo lại trổi dậy. Tướng Pushyamitra Sunga của vị vua cuối cùng triều đại Maurya, đã ám sát nhà vua và lập nên triều đại Sunga.Ông liền làm lễ tế ngựa, khuyến khích tín ngưỡng Bà-la-môn. Nguyên tắc Bất Hại của Phật giáo bị bãi bỏ. Nhiều chùa chiền Phật giáo bị tàn phá. Tăng ni bị giết hại. Phật giáo bị đình chỉ. Rồi triều đại Guptas của Bà-la-môn giáo lại đến mở ra thêm con đường suy tàn của Phật giáo.

 

6) Vai trò của các Bà-la-môn sư

 

Vua Harsavardhan đuổi hết các sư Bà-la-môn trong kỳ Đại hội Tôn giáo tại Kanauj. Kumarila Bhatta cầm đầu các vị sư nầy, chạy qua Deccan. Dưới sự  lãnh đạo của Bhatta, Bà=la-môn giáo đã phục hưng. Luận sư Adi Sankaracharya cũng đã hồi sinh và tăng cường Ấn giáo. Ông đã đánh bại nhiều đối thủ Phật giáo trong khi đi giảng thuyết tại nhiều nơi trên toàn xứ Ấn-độ.

 

Như vậy, sự thắng thế của Ấn giáo trên Phật giáo đã được thành lập. Chiều hướng nầy tiếp tục với các nỗ lực của các sư như Ramanuja, Nimbarka, Ramananda, vv,,,Ấn giáo đã tái lập được sự vinh quang, và vị thế trong lòng người dân Ấn..Với sự thất bại của Phật giáo.

 

7) Rạn nứt trong Giáo hội Phật giáo

 

Sự chia rẽ trong Giáo Hội khiến cho tăng tài không thể xuất hiện. Những gương sáng như ngài A-nan, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên trở nên rất hiếm hoi. Tinh thần và nghị lực truyền giáo đã biến mất. Như vậy, sự suy tàn của Phật giáo đến với sự thiếu vắng của những nhà truyền giáo và cải cách nhiệt thành.

 

8) Sự thờ phượng đức Phật

 

Đại thừa Phật giáo khởi đầu sự thờ phượng tượng ảnh của đức Phật. Cách thờ phượng nầy đi ngược với nguyên tắc của Phật giáo là chống lại các nghi lễ phức tạp của Ấn giáo. Sự mâu thuẫn nầy khiến cho người ta tin rằng Phật giáo đã nghiêng hẳn về phía Ấn giáo. Do đó tính quan trọng của Phật giáo mất dần

 

9) Mất đi sự ủng hộ của vua chúa

 

Theo thời gian, Phật giáo đã mất dần sự ủng hộ của các quân vương. Sau Asoka, Kaniska và Harsavardhan, không có vị vua nào đáng kể đã đến bảo trợ Phật giáo. Sự ủng hộ của nhà vua là điều nhiệm mầu để cho bất cứ tôn giáo nào có thể phát triển. Sự thiếu vắng điều kiện nầy đã lót đường cho sự suy tàn cuối cùng của Phật giáo.

 

10) Hung-nô xâm chiếm

 

Sự xâm chiếm Ấn-độ của quân Hung-nô đã làm rung chuyển Phật giáo. Các tướng Hung-nô như Toamana và Mihirakula hoàn toàn chống lại nguyên tắc Bất Hại. Họ tàn sát nhiều Phật giáo đồ ở vùng Tây Bắc Ấn-độ. Giáo dân chỉ có con đường là bỏ đạo hay chạy trốn. Không ai dám rao truyền lời dạy của Phật trong thời gian nầy. Do đó Phật giáo trở nên suy yếu và cạn kiệt.

 

11) Sự xuất hiện của các vị vua hiếu chiến

 

Sự xuất hiện của các vị vua tàn bạo nầy là lý do quan trọng cho sự suy thoái của Phật giáo.Các triều đại như Bundela, Chahamana, Chauhan, Rathore, vv...đều ưa thích chiến tranh.   Họ không thể dung thứ Phật giáo đồ trung thành với nguyên lý Bất Hại. Phật tử sợ bị ngược đãi nên phải trốn khỏi Ấn-độ. Phật giáo suy yếu và đối diện sự điêu tàn.

 

12) Sự xâm chiếm của quân Hồi giáo

 

Sự xâm chiếm của các đạo quân Hồi giáo gần như đã tận diệt Phật giáo. Từ năm 712, họ liên tục và nhiều lần tấn công Ấn-dộ. Tăng ni Phật giáo buộc phải chạy trốn và lánh nạn ở Nepal và Tây Tạng. Cuối cùng Phật giáo gần như biến mất khỏi Ấn-độ, nơi nó sinh ra,

 

 

Thích Phước Thiệt dịch theo tài liệu “Top 12 causes for the decline of Buddhism” của Stithi Das. - 18/06/2018

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/07/2011(Xem: 28164)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 5633)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 8339)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
24/06/2011(Xem: 2774)
Theo kết quả điều tra dân số năm 2001, Ấn Độ quê hương của Đức Phật, hiện là quê hương của 3.881.056 nữ Phật tử (1). Hiện ước chừng có khoảng 300 triệu nữ Phật tử trên thế giới, trong đó 130.000 vị Ni. Cộng đồng ngày càng lớn mạnh này có một vị trí rất đáng tự hào trong một truyền thống mà ở đó Ni giới và nữ Phật tử từ rất lâu đã là một bộ phận không thể tách rời của Tăng già, gần như ngay khi Tăng già được thành lập. Tuy vậy, ngoài những câu chuyện cảm động được kể lại trong Trưởng lão Ni kệ (2), một cuốn sách trong đó các vị Tỳ kheo Ni tiền bối kể lại quá trình nỗ lực cố gắng và những thành quả mà các vị đã đạt được trên bước đường tới quả vị A La Hán, không có một chứng cứ lịch sử nào được chứng minh. Kết quả là, ghi chép về những đóng góp của nữ giới Phật giáo giờ chỉ còn lại trong những nhân vật văn học của Trưởng lão Ni kệ.
24/06/2011(Xem: 2856)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau nầy được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN, là kết quả tích tụ của nhiều phát triển vốn có từ trước. Nguồn gốc của nó không liên hệ với một cá nhân nào, và cũng không đặc biệt liên kết với một tông phái nào của thời kỳ Phật Giáo sơ khai. Có thể phong trào đó khởi dậy từ nhiều nơi trong xứ Ấn Độ, tại miền nam, miền tây bắc và miền đông.
23/06/2011(Xem: 2483)
Quảng Hoằng Minh Tập là bộ sử liệu về tư tưởng Phật giáo do danh tăng Thích Đạo Tuyên (596-667) đời Đường biên soạn. Sách gồm những bài viết Phật học từ đời Ngụy Tấn đến sơ Đường của hơn 130 tác giả.
20/06/2011(Xem: 7227)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
20/06/2011(Xem: 2610)
Thông thường ai cũng nghĩ rằng đạo Phật chỉ mới được truyền sang tây phương trong các thế kỷ gần đây mà thôi, mà quên rằng trong nhiều thế kỷ trước tây lịch PG đã thấm nhuần vùng Tiểu Á và tây bắc Ấn, rồi ảnh hưởng trên cả nền triết học Hy-lạp và giáo lý của vài tôn giáo lớn có nguồn gốc tây phương. Phật tử Việt nam vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm giáo pháp truyền từ Trung quốc nên ít biết đến sự giao hòa của hai nền văn hóa Hy-lạp và PG khởi đầu rất sớm ở vùng đất này.
18/06/2011(Xem: 4853)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567