Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Những món ăn trong nhà

27/11/201311:36(Xem: 19002)
06. Những món ăn trong nhà

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An



6. Những món ăn trong nhà





Bếp là lãnh địa của các bà nội trợ. Bếp rất lớn, với những bức tường làm bằng đá. Lò nấu là một tảng đá dài, có khi dài tới ba thước, với từ năm đến tám miệng lò. Qua một cái lỗ lớn ở mặt trước, người ta cho vào lò phân dê khô làm chất đốt. Người ta cũng đốt lửa qua cái lỗ này. Mỗi buổi chiều, ba thùng lớn chất đốt được đặt vào trong lò. Sáng hôm sau chúng tôi nướng một trong những loại bánh mì truyền thống, được gọi là "kunguntze"

Bánh mì là một loại thực phẩm quan trọng của chúng tôi. Chúng tôi cũng làm bánh mì mặn nhân thịt "timomo'' trong sáu cái xửng hấp đặt chồng lên nhau. Một loại bánh mì khác là "kansho", được nướng trong lò. Chúng tôi cho cát trắng khô vô lò lửa rồi đặt củi lên trên cát. Khi cát và củi đã cháy đỏ, chúng tôi cho bánh mì vào trong lửa. Bánh mì nướng kiểu này thì ngon và không bao giờ cháy và luôn luôn có màu nâu vàng. Một loại bánh mì nữa là "kuki", được nướng trong nồi đất. Loại bánh mì này có màu đỏ, vì được cho thêm bột nghệ, mật mía và hạt walnut.

Thời của chúng tôi không dễ dàng. Người nội trợ phải làm tất cả công việc nấu ăn cho người trong gia đình cũng như những người giúp việc. Tất cả đàn bà con gái trong nhà giúp làm việc này. Vào buổi sáng chúng tôi cho người giúp việc ăn bánh mì "timomo" và bột "tsampa" với nước trà. Có khi họ ăn cháo với sữa và muối. Ở Tsongkha chúng tôi có loại bánh giòn "yenmi", được nướng trong cát, tro, phân hay củi. Ngày nào ăn loại bánh này chúng tôi phải làm hơn một trăm cái.

Bữa ăn trưa được đưa ra ngoài đồng cho các tá điền. Sáu mươi xửng "timomo", khoảng từ một ngàn năm trăm đến hai ngàn cái bánh nhân thịt được hấp. Buổi chiều chúng tôi cho họ ăn mì với nước lèo nấu trong một cái nồi lớn cho khoảng ba trăm tô mì. Chúng tôi không bao giờ dùng đồ nấu ăn bằng nhôm hay thiếc, người nào dùng đồ như vậy sẽ bị gọi là ăn mày, chúng tôi dùng đồ bằng sắt hay đất nung.

Ở quê hương chúng tôi có nhiều loại bột "tsampa", được làm bằng lúa mạch, yến mạch và đậu. Khi trời lạnh quá, bánh "tsampa" là món ăn chính yếu của chúng tôi. Có khi chúng tôi cho tá điền ăn loại "tsampa" chiên trong dầu, họ thích món này vì sau khi ăn họ không cảm thấy mau đói. Người làm việc ngoài đồng tốn rất nhiều năng lượng.

Những món ăn tiêu biểu của người Amdo là "ranfan" và "chowtan", được làm bằng lúa mạch. Bột lúa mạch được nấu với một chút nước và được khuấy liên tục cho đến khi chín đặc. Không nơi nào khác ở Tây Tạng có món ăn này.

Thịt được ăn hai lần một tuần. Mỗi lần chúng tôi có thể nấu gần hai mươi ký thịt. Vào dịp Tết, chúng tôi mướn đồ tể đến làm thịt heo, vì chúng tôi không muốn tự tay sát sanh. Có khi trâu yak và cừu cũng được làm thịt. Chúng tôi làm thịt khô bằng cách treo thịt ở trong một căn phòng đặc biệt ở tầng trên.

Khi còn nhỏ tôi thích coi phụ nữ trong nhà làm món mì địa phương "thukpa" nổi tiếng của Amdo. Vào mùa hè chúng tôi ăn mì lạnh, và mùa Đông ăn mì nước lèo nóng. Tôi thích đi ra sân sau nhà giã tỏi và ớt cho món mì vì không ai nghe thấy tôi, do vậy tôi có thể làm việc này quá giờ đi ngủ mà không ai biết. Ông nội sẽ chỉ mắng yêu tôi "Coi cháu kìa, đầy mùi tỏi. Rồi người ta sẽ nói sao?".


banh mi tay tang
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 3543)
Khao-khát cái tuyệt-đối, khinh-thường cái cái trương-đối; mong cầu cái vĩnh-viễn trường-tồn, ruồng-bỏ cái biến-chuyển vô-thường, người Viêt-Nam nói riêng và người Á-Châu nói chung đã được huân-tập mấy ngàn năm trong một thái-độ tư-tưởng như trên, nên đã xem thường lịch sử, là một môn học theo sát sự biên-chuyển vô-thường của sự thế, mà mục-đích là mong ghi chép một cách trung-thành những gì đã mất hút trong bóng tối của thời-gian.
09/04/2013(Xem: 15416)
Lịch sử Phật giáo đã có từ trên 2500 năm. Lúc đầu Phật giáo được triển khai từ Ấn Độ, rồi dần dần lan tràn ra hai ngả Bắc phương và Nam phương. Bắc phương là các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản, cùng các nước thuộc địa vực Tiểu Á Tế Á. Nam phương là những nước Tích Lan1, Miến Điện2, Thái Lan, Ai Lao3, Cao Miên4, đảo Java, Sumatra trong Nam Dương5 quần đảo và hiện nay Phật giáo đã được phổ cập hầu khắp các nước trên thế giới.
09/04/2013(Xem: 14840)
Ngày nay trên khắp các châu lục người ta đều biết đến Phật giáo là tôn giáo được phát nguyên từ Ấn Độ. Duy có điều để hiểu về quá trình hình thành, truyền bá và phát triển của Phật giáo là như thế nào,thì phải cậy đến sử học. Muốn hiểu lịch sử của một quốc gia, một tôn giáo v.v... điều cần yếu là sự thật. Nhưng thế nào là sự thật? Nhất là sự thật lịch sử. Bởi thường thì người ta hay đứng trên một quan điểm nào đó để viết sử; nếu thiếu tinh thần khách quan và trách nhiệm, sự thật của lịch sử cũng theo đó mà bị dị dạng!
09/04/2013(Xem: 3488)
Như chúng ta đã biết qua trong bài học thứ nhất, cái của đạo Phật ở Ấn Ðộ, trong khi trưởng thànhđã chia thành hai thân cây lớn,một thân cây hướng về phía Nam, tức là Nam tôn Phật Giáo,trong thân cây hướng về phía Bắc, tức là Bắc phương Phật Giáo.
09/04/2013(Xem: 16018)
Ngày xưa khi còn là chú điệu, thỉnh thoảng đâu đó tôi có nghe người lớn nói về Tây Tạng, coi Tây Tạng như một nơi đầy những chuyện thần kỳ, huyền bí. Nào là ở Tây Tạng có “Phật sống”, có những “cậu bé” vừa tròn ba, bốn tuổi đã tự biết và nói trúng những gì thuộc về kiếp trước của mình. Có những vị Lạt-ma tọa thiền trên tuyết hồi lâu tuyết tự tan, hoặc nói là dân Tây Tạng sống chung với các vị Thánh có phép thần thông, dân Tây Tạng ai ai cũng tu niệm và đọc tụng thần chú đạt đến hiển linh v.v..
09/04/2013(Xem: 3999)
VNQL 2256/624 Trước TL (Đinh-Dậu) : Thái tử Tất-Đạt-Đa, vị Phật tương lai, giáng trần tại Kapilavastu, gần biên giới Nepal và Ấn Độ. VNQL 2274/606 B.C (Ất-Mẹo) : Vua Tịnh Phạn buộc Thái tử Tất-Đạt-Đa (19 tuổi) kết hôn với Công chúa Gia Du Đà La.
09/04/2013(Xem: 13497)
Có không ít người thường viện dẫn câu hỏi triết học: ‘Trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng’ để phủ nhận đạo lý nhân quả trước sau. Vì đứng từ nghĩa tuyệt đối, mọi sự vật trên thế gian này chỉ là vòng lẫn quẩn không có cái nào trước, cũng không có cái nào sau. Hạt nẩy mầm thành cây, hay cây sinh ra hạt? Lấy nguyên tắc nào để xác định cái nào sinh ra cái nào. Cũng vậy, trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng, câu trả lời nào cũng đúng và câu trả lời nào cũng sai cả. Phải chăng điều đó biểu thị giá trị nhận thức của con người trở thành vô nghĩa?
09/04/2013(Xem: 4238)
Dựa vào một số tác phẩm Purāna (văn học của Bà-la-môn giáo)[1] và Harsacarita, chúng ta thấy rằng, vua Brhadratha chính là vị hoàng đế sau cùng thuộc triều đại Maurya. Vị vua này bị vua Pusyamitra xác hại để cướp ngôi. Vua Pusyamitra là người đã từng nắm chức tổng tư lệnh trong quân đội dưới triều đại của vua Brhadratha. Ông đã cướp lấy ngôi vua thuộc vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) và sáng lập nên triều đại Śunga. Kinh Divyāvadāna (A-dục-vương truyện) còn ghi lại rằng, vua Pusyamitra là người thuộc triều đại Maurya
09/04/2013(Xem: 6311)
Vì có nhiều người thắc mắc việc Ðạo Phật biến mất trên đất Ấn Ðộ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Ðộ, cũng là một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Ðộ Giáo, dưới quan điểm của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị.
08/04/2013(Xem: 8681)
Đức Phật dạy: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn cũng như giáo lý của ta chỉ có một vị là giải thoát”. Mùi vị của nước trăm sông tuy có khác, nhưng chảy về biển cả thì chỉ là một vị mặn. Mục tiêu chính là Đức Phật xuất hiện ở đời là để giúp chúng sanh “chuyển mê thành ngộ” nghĩa là dứt bỏ những mê lầm tà vạy trở về con đường sáng giác ngộ chân lý, giác ngộ chân lý là được giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]