Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương VII: Thành Tỳ Xá Ly (Vesali

26/09/201021:09(Xem: 4243)
Chương VII: Thành Tỳ Xá Ly (Vesali

Tỳ Xá Ly (Vesāli) là thủ đô của bộ tộc Licchavi, nước cộng hoà đầu tiên trên thế giới, nơi mà có nhiều sự kiện lịch sử trọng đại liên quan đến Phật giáo. Chính nơi đây, là điểm dừng chân lần cuối của đức Phật để thuyết pháp và chúc phúc cho toàn dân thành Vesāli, vì Ngài thừa biết rằng mình không bao giờ trở lại nơi này thêm một lần nào nữa.

1. Khái quát thành Tỳ Xá Ly cổ xưa

Khoảng 1 giờ chiều ngày mùng hai Tết Mậu Tý, đoàn chúng tôi đã đến chùa Kiều Đàm Di, ngôi chùa Việt Nam tại Vesāli, ni sư Khiết Minh trụ trì, xin nghỉ tạm một đêm, để thăm viếng các thánh tích tại đây. Sau khi được một bữa cơm đậm đà hương vị Việt Nam do chư ni trong chùa thết đãi, nhất là trong dịp tết, đoàn chúng tôi cảm thấy vui sướng và rất xúc động cho những nữ tu Việt Nam phát nguyện dấn thân công quả, chung góp bàn tay vun đắp nơi thánh địa này ngày càng sung thạnh, biến đất khô cằn sỏi đá thành những luống rau xanh tươi tốt, biến mảnh đất hoang vô dụng thành ngôi tự viện khang trang. Nhờ những hình ảnh thánh thiện, những con người hy sinh vì đạo lớn đã khích lệ đoàn chúng tôi càng quyết tâm hơn nữa, làm việc trong tinh thần trách nhiệm, hài hoà, mong hoàn thành tốt những tiêu chí đã đặt ra.

Tỳ Xá Ly (Vesāli) là thủ đô của bộ tộc Licchavi, nước cộng hoà đầu tiên trên thế giới, nơi mà có nhiều sự kiện lịch sử trọng đại liên quan đến Phật giáo. Chính nơi đây, là điểm dừng chân lần cuối của đức Phật để thuyết pháp và chúc phúc cho toàn dân thành Vesāli, vì Ngài thừa biết rằng mình không bao giờ trở lại nơi này thêm một lần nào nữa. Khi rời Tỳ Xá Ly, đức Phật đã ngoái đầu nhìn lại và tán thán: “Ôi xinh đẹp thay thành phố Tỳ Xá Ly! Ôi xinh đẹp thay những điện thờ và những khu lâm viên của Tỳ Xá Ly.” Thành phố Tỳ Xá Ly còn là quê hương của Ngài Duy Ma Cật, một vị cư sĩ Bồ Tát nổi tiếng mà đức Phật đã đề cập như một nhân vật giác ngộ chính trong Kinh Duy Ma Cật. Thành phố này còn là nơi nhận một phần tám xá lợi của đức Phật ngay sau lễ Trà Tỳ của Ngài. Những năm trước khi nhập diệt, đức Phật thường hay lưu trú tại thành Tỳ Xá Ly này.

Lần thứ nhất Ngài từ Ma Kiệt Đà (Magadha) đến Tỳ Xá Ly do lời thỉnh cầu của toàn dân trong thành, mong nhờ oai đức của Phật để cứu bá tánh chúng sinh thoát khỏi nạn đói do hạn hán kéo dài, dân trong thành chết như rạ và dẫn đến nạn dịch nguy hiểm. Dân chúng Tỳ Xá Ly với nghi lễ trang nghiêm rực rỡ đến biên giới thỉnh Phật. Ðức Phật qua sông Hằng và lên bờ sang nội địa của Tỳ Xá Ly. Khi về đến thành Tỳ Xá Ly đức Phật thuyết kinh Châu Báu(Ratana sutta)hay còn gọi là kinh Cầu An, thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya). Sau đó đức Phật sai tôn giả A Nan cùng các vương tử Licchavi đi xung quanh kinh thành, vừa tụng kinh này, vừa rải nước được lấy từ bình bát của đức Phật. Thật là mầu nhiệm, tiếng tụng kinh vang đến chỗ nào thì nơi đó sấm sét nổi lên và mưa tuôn xuống, nhờ vậy mà dịch bệnh nơi đó biến mất. Sự kiện này đã làm cho dân chúng Tỳ Xá Ly càng kính tin đức Phật, hàng vạn người dân trong thành xin được quy y làm đệ tử tục gia của đức Thế Tôn. Dân chúng và Chính phủ hợp lực xây dựng tinh xá tên là Trùng Cát (Kutagara), trong rừng Đại Lâm (Mahavana) để thỉnh Phật và chư Tăng ở lại. Sau 7 ngày đức Phật trở về lại Ma Kiệt Đà với sự tiễn đưa rất là long trọng.

2. Nơi thành lập Ni đoàn Phật giáo

07-05files_php-content

Trụ đá vua A Dục và tháp thờ Xá Lợi Phật, đánh dấu nơi thành lập Ni đoàn. Ảnh: Tâm Bửu

Ðức Phật trở lại Tỳ Xá Ly nhiều lần sau đó, thường ngự tại tinh xá Trùng Cát. Nhiều bộ kinh được thuyết tại nơi này như Mahali, Mahasihanadas, Cula Saccaka Mahasaccaka... Cũng chính tại khu rừng Đại Lâm xứ Tỳ Xá Ly này, Ni đoàn Phật giáo chính thức được thành lập, nghĩa là đức Phật chấp thuận cho nữ giới xuất gia, đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại, đó là nữ tu sĩ có vai trò trong đoàn thể Phật giáo, đề cao vai trò của nữ giới nơi Ấn Độ nói riêng hay tinh thần bình đẳng nam nữ trên khắp thế giới nói chung, là nét nhân văn cao đẹp, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo cũng như các trường phái tư tưởng được biết trước và ngay thời đức Phật. Bằng lời nói khẳng định của đức Từ Phụ: “Nếu phụ nữ tu hành tinh tấn cũng có thể chứng quả A La Hán”. Và cũng từ ý nghĩa quan trọng này, Đại Thừa đã phát triển lên đến đỉnh cao về mặt tư tưởng là Phật tánh bình đẳng hay tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và sẽ thành Phật. Đây là giáo nghĩa thâm thuý và viên đốn trong văn học tư tưởng Đại thừa. Luật tạng ghi chép rằng, sau khi vua Tịnh Phạn (Suddhodana) băng hà, di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāpajāpati Gotamī) cùng 500 thể nữ dòng họ Thích Ca (Sakyā) tự cạo tóc, thân đắp cà sa, đi chân đất từ thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) đến Tỳ Xá Ly (Vesāli), nơi đức Phật đang giáo hóa xin được xuất gia. Nhờ sự nhẫn nại thưa thỉnh thống thiết của A Nan cùng với quyết tâm cao độ của di mẫu và các thể nữ dòng họ Thích, được biểu hiện bằng những hành động cụ thể, đức Phật đã chấp thuận cho nữ lưu gia nhập Tăng đoàn, nhưng họ phải tuân thủ tám điều (bát kỉnh pháp) từ ngày xuất gia cho đến trọn đời. Tám điều ấy là:

1 Một Tỳ kheo ni, dầu có trăm tuổi hạ khi gặp thầy Tỳ kheo mới thọ giới Cụ túc cũng phải chào hỏi, đảnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo.

2- Một Tỳ kheo ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ kheo trong bất kỳ trường hợp nào.

3- Tỳ kheo ni không được ngăn Tỳ kheo xét tội, thuyết giới, tự tứ hay nói lỗi của Tỳ kheo. Trái lại, Tỳ kheo được quyền cử tội Tỳ kheo ni.

4- Muốn thọ trì Cụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ kheo ni và Tỳ kheo

5- Nếu Tỳ kheo ni phạm tội hữu dư (Tăng tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma na đỏa) trong thời gian nửa tháng.

6- Nửa tháng phải đến bên Tỳ kheo tăng cần cầu dạy bảo.

7- Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ kheo ở.

8- Khi an cư xong, phải đến Tỳ kheo tăng cầu ba sự tự tứ: thấy, nghe và nghi.

Những điều lệ căn bản và thiết yếu này chính là cái nhìn tuệ giác của Phật, không phải vì ràng buộc mà nhằm bảo hộ cho ni đoàn sinh hoạt yên ổn và khiến nữ giới dễ diệt trừ bản ngã để đạt thánh vị mau chóng.

Từ các nền móng của các ngôi tự viện cũ tại Tỳ Xá Ly, người ta cũng xác định được đâu là ngôi tịnh xá mà xưa kia chư ni đã từng lưu trú tu tập.

3. Trụ đá vua A Dục (Asoka)

07-6files_php-contentTrụ đá vua A Dục Ảnh: Tâm Bửu

Trong triều đại của vua A Dục (Asoka), vào năm thứ 20, Ông cũng thân hành đến nơi đây để chiêm bái và dựng thạch trụ, một trong nhiều thạch trụ ở Ấn Độ, để đánh dấu sự kiện trọng đại của Phật giáo tại thành Tỳ Xá Ly này. Hiện nay, hầu hết các trụ đá của vua A Dục được dựng lên trong tất cả các thánh tích, điều bị tàn phá, gãy đổ, do các đế chế đối nghịch Phật giáo và quân Hồi giáo bạo tàn. Chỉ duy nhất nơi đây thạch trụ sư tử một đầu vẫn còn nguyên vẹn và đứng vững vàng, hiên ngang giữa khu phế tích Phật giáo. Thạch trụ là một khối đá nguyên được đẽo gọt tròn láng, cao khoảng 11m và đường kính khoảng 1m. Trên thân trụ có nhiều hoa văn và những bia ký được khắc bằng kiểu chữ Brahmi, ở đỉnh có hình sư tử một đầu hướng về phương Bắc. Nhờ những chữ khắc trên thân trụ mà người ta được biết chính nơi đây đức Thế Tôn đã để lại những di ngôn cuối cùng trước khi giã từ dân chúng Tỳ Xá Ly đi về Câu Thi Na nhập Vô Dư Niết Bàn. Phía trước thạch trụ là nền gạch cũ chu vi khoảng 15 m vuông, cao khoảng 3m, đó là ngôi tháp do vua A Dục xây dựng để thờ Xá Lợi Ngài A Nan, người có công đầu trong việc xin cho nữ giới thành lập ni đoàn Phật giáo. Vào năm 1976, các nhà khảo cổ đã khai quật và tìm thấy một hộp bằng đá đựng xá lợi, vài lá vàng ròng và những viên đá quý rất nhỏ. Xung quanh ngôi tháp này cũng có nhiều bờ tường cũ mục, cũng có thể là di tích của những tu viện cũ hay những ngôi tháp nhỏ được xây dựng xung quanh đại tháp này. Phía sau thạch trụ khoảng 10m, có một cái hồ nước hình chữ nhật có tên là Ramakunda, nghĩa là Hồ Khỉ, nhằm lấy tên của một con khỉ chúa thường xuyên thỉnh bát của Phật, leo lên các cành cây hái trái và lấy mật để cúng dường đức Phật khi Ngài dừng chân tại khu Đại Lâm này.

4. Tháp thờ Xá Lợi Phật của dòng họ Licchavi

07-07files_php-content

Cách trụ đá khoảng 3km về hướng Tây, có một nền tháp lớn thuộc dòng họ Licchavi xây dựng để tôn thờ Xá Lợi Phật. Người ta cho rằng, vua A Dục đã khai quật tháp này, đem xá lợi phân chia thành nhiều phần nhỏ và xây dựng tháp thờ trên khắp xứ Ấn Độ. Hiện nay, nơi này chỉ còn lại nền gạch cũ chạy vòng tròn, sâu trong lòng dất khoảng 4m. Phía trên dựng lều vòm tròn bằng vật liệu nhẹ và toon nhựa màu xanh, để che nắng mưa làm hạn chế sự xói mòn và phá hoại của môi trường tự nhiên.

5. Ngôi nhà kỹ nữ Ambapālī

07-08files_php-content

Trước cổng nền nhà kỹ nữ Ambapālī Ảnh: Tâm Bửu

Quanh vùng Tỳ Xá Ly (Vesāli) này, người dân thường tương truyền với nhau về câu chuyện của kỹ nữ Ambapālī còn có tên là cô gái vườn xoài, là một kỹ nữ tài hoa, nhan sắc tuyệt trần, dáng vẻ quí phái. Tiếng tăm của nàng không chỉ vang dội tại thành Tỳ Xá Ly mà còn lan xa đến các nước lân cận, làm cho nhiều vương tôn công tử bỏ nhiều công sức và tiền bạc cho nàng. Nhan sắc của nàng chinh phục cả đại quốc vương Tần Bà Sa La (Bimbisāra), là vua của nước Ma Kiệt Đà (Magadha) nên nàng đã có một con trai với vị vua này tên là Vimalakondanna, vị này sau trở thành Tỳ kheo trong giáo đoàn của Phật.

Lần cuối cùng, đức Phật và tăng đoàn ngang qua thành Tỳ Xá Ly và dừng nghỉ tại khu vườn xoài của Bà. Bà vội đến thỉnh cầu đức Phật và chúng tăng nhận phần cúng dường ngọ trai ngày hôm sau. Đức Phật nhận lời bằng cách im lặng, đây là cử chỉ chấp nhận thường dùng trong Phật giáo. Khi hay tin đức Phật nhận bữa ngọ trai ngày hôm sau do Ambapālī cúng dường, nhiều phú gia cũng như các hàng công tử đến mặc cả nhường buổi cơm trưa cho vị thượng khách như đức Phật với giá rất cao nhưng Bà tuyệt đối từ chối (kinh Đại Bát Niết Bànthuộc Trường Bộ). Sau bữa ngọ trai thịnh soạn hôm đó, Bà phát tâm cúng dường cả vườn xoài cho Phật và chúng tăng để xây dựng tinh xá. Một phần nhờ những lời cảm hoá của con trai Bà, bây giờ là đại đức Vimalakondanna, một phần do Bà quán chiếu được sự vô thường tạm bợ của thân xác, sắc đẹp chóng tàn phai, mọi của cải vật chất không phải là cứu cánh của đời người, nên Bà phát tâm xuất gia, trở thành Tỳ kheo ni và dốc lòng tu tập, chẳng bao lâu chứng đắc quả vị A La Hán. Những lời giác ngộ của Bà được ghi chép đầy đủ trong Trưởng Lão Ni Kệ(Therīgāthā).

Ngày nay, đến tận nơi khu vườn lịch sử này, chúng ta không còn thấy gì giống như sự mô tả trong kinh điển, mà chỉ là khu phố nhỏ nghèo nàn, buôn bán vài thứ hàng thôn quê và tạp nhạp khác. Khuôn viên có hàng rào bao quanh, phía trên cổng vào có hàng chữ được cho là nền nhà của Ambapālī, bên trong là ngôi trường làng nho nhỏ có hai phòng. Thật tế một điều, cư dân quanh vùng vẫn xác định đây chính là nơi ở của Bà ngày xưa và truyền nhau câu chuyện li kỳ, như một niềm tự hào về một danh nhân bản địa. Chúng tôi được biết là họ sẽ trồng lại khu vườn xoài trong một tương lai gần để kỷ niệm khu vườn xoài vang tiếng của mấy ngàn năm về trước.

6. Nền nhà của Bồ Tát Duy Ma

07-09files_php-content

Khu được cho là nền nhà của Bồ Tát Duy Ma Cật Ảnh: Tâm Bửu

Trên đoạn đường đi đến nhà Ambapālī, chúng tôi dừng lại khu vực được cho là nền nhà của cư sĩ Bồ Tát Duy Ma thuở xưa, nhân vật được xem như là lý tưởng nhất, là danh xưng của một bộ kinh đặc trưng trong văn học Phật Giáo Đại Thừa, đó là Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh.Nhờ tính đa văn, biện tài xuất chúng làm cho các vị thánh đệ tử của Phật thán phục trí tuệ của ông. Mặc dù là nơi có ngôi nhà tên tuổi trong thành Tỳ Xá Ly năm nào, hiện nay chỉ là vùng đất hoang sơ, cỏ mọc um tùm, bao quanh một hồ nước mênh mông, với một vài cây cổ thụ nghiêng mình trên mặt hồ trong xanh yên ả. Không có một dấu vết gì để chúng ta hình dung và liên tưởng đến sự huyền bí của ngôi tịnh thất một trượng sáu vuông chứa ba ngàn toà sư tử. Nhìn cảnh vật vắng vẻ, buồn tênh, lòng bỗng nao nao khó tả, khi nghĩ về cuộc đời vô thường sanh diệt, nay cồn mai biển, bãi bể nương dâu, biết bao kiếp làm người trên trần thế này cũng không thấu hết nỗi buồn nhân thế. Chỉ có tuệ giác như đức Phật, chỉ có chứng ngộ, chúng ta mới hiểu thấu mọi vấn đề mà ngôn ngữ trần gian không thể nào diễn tả hết mọi sự biến thiên của vũ trụ. Xe đã rời khỏi nơi kỷ niệm ngàn xưa của Ngài Duy Ma, nhưng hình ảnh hoang sơ, yên ả của buổi xế chiều vừa chứng kiến cứ hiện mãi trong lòng kẻ lữ hành đang tìm lại những gì còn sót lại trên quê hương Phật giáo, đã bị tàn phá bởi thiên nhiên và cả lòng hiềm thù, hẹp hòi ích kỷ của con người.

7. Nơi kết tập kinh điển lần II

07-10files_php-content

Khu kết tập kinh điển lần thứ II Ảnh: Tâm Bửu

Vừa qua đoạn đường đất gồ ghề trong một vùng quê hẻo lánh, nếu trời mưa thì không cách nào có thể đến nơi được, đó chính là địa điểm diễn ra cuộc kết tập kinh điển lần thứ hai, khoảng 100 năm sau Phật Niết Bàn. Nỗi buồn về ngôi nhà của Ngài Duy Ma Cật chưa hết niềm vương vấn, lại phải chứng kiến cảnh xâm chiếm bất hợp lệ của ngoại đạo đó là đền thờ Ấn giáo nằm giữa mô đất được cho là nơi lịch sử mà bảy trăm vị thánh tăng tập trung kết tập kinh điển còn gọi là Thất Bách Kết Tập. Và từ cuộc kết tập kinh điển này, Phật giáo chia thành hai bộ phái: Thượng Toạ Bộ (Theravāda) và Đại Chúng Bộ (Mahasanghika).

Không riêng gì nơi này, hầu hết các thánh địa Phật giáo tại Ấn Độ, bất cứ nơi nào có thánh tích Phật giáo thì người Ấn giáo lại xâm canh ngay nơi phần đất quan trọng và dựng lên một ngôi đền, hoặc một loại thờ tự nào mà họ cho là linh thiêng.Khu kết tập kinh điển có khả năng dung chứa bảy trăm vị thánh tăng hôm nào, nay chỉ là mô đất nhỏ đủ để xây một cái “nhà chòi” bằng gạch của Ấn giáo. Phía trước có một cây Bồ Đề rất lớn, tàng phủ trùm cả một vùng chắc cũng hàng trăm tuổi thọ. Xung quanh là ruộng lúa và những đồng cỏ hoang vu cùng với những con đường mòn của người địa phương. Hoàng hôn bắt đầu phủ trùm trên lối đi, cảnh vật xung quanh dường như mờ dần, lại thêm nơi vắng vẻ, đoàn chúng tôi chỉ ghi một vài hình ảnh lưu niệm và bắt đầu lên đường trở về khách sạn từ bi (chùa Kiều Đàm Di) nghỉ ngơi. Chúng tôi thiết nghĩ, thôi hãy để mọi việc chìm vào quá khứ như vạn vật chìm vào bóng đêm. Đời là thế, mạnh được yếu thua, là một quy luật mà đức Thế Tôn đã nhìn thẩm thấu và bất mãn sau lần đầu tham dự lễ Hạ điền thuở thiếu thời. Và cũng từ cái nhìn thẩm thấu đó mà ngày hôm nay nhân loại mới có một đạo Phật nhân bản chỉ vì lợi ích của con người, một chân lý sống đầy tuệ giác, là quà tặng vô giá cho tất cả mọi người con Phật, cho cả những ai biết sống vì con người vì cuộc đời.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/12/2010(Xem: 3833)
Mùa Xuân là mùa đâm chồi nẫy lộc của thiên nhiên. Cách đây hơn 25 thế kỹ, nhân loại cũng đã chứng kiến một hiện tượng “đâm chồi nẫy lộc” khác vĩ đại và tuyệt vời hơn nhiều. Không phải của thiên nhiên mà của trí tuệ, không phải làm đẹp cảnh vật mà làm sáng lên một con đường giải phóng chúng sinh thoát khổ. Hiện tượng khai hoa nở nhụy đó là sự thành hình của Tăng đoàn Phật giáo (Tăng già, Sangha) do chính Đức Phật khai sinh, nuôi dưỡng và uốn nắn để từ đó lớn lên, lan rộng, vượt thời gian, tồn tại cho đến ngày nay dưới những chiếc tăng bào nhiều màu sắc trên khắp mặt địa cầu.
26/12/2010(Xem: 3775)
Dân số thế giới: 7 tỷ, trong đó, Á châu: 4 tỷ (Trung Quốc có 1.3 tỷ, Ấn Độ có 1.1 tỷ). Đạo Phật: 500 triệu tín đồ, đa số ở Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á, và một phần của Nga. Việt Nam: dân số 84 triệu, Phật giáo 83% (70 triệu; gồm Bắc tông 78% và Nam tông 5%), Gia-tô giáo 7%, Cao Đài 2%, các đạo khác và vô tôn giáo 8%).
25/12/2010(Xem: 4679)
Lịch Sử Kết Tập Kinh Điển , Bình Anson minh họa bằng biểu đồ và hình ảnh
25/12/2010(Xem: 9642)
Phật giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN. Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người, và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
24/12/2010(Xem: 6406)
Nếu ta dở bản đồ thế giới, ta sẽ thấy Á Châu chiếm một vùng đất mênh mông hình mặt trăng lưỡi liềm, hai đầu chỉa về hướng bắc, vòng trong đi theo duyên hải Biển Bắc Cực của xứ Scandinavia và Tây Bá Lợi Á. Vòng ngoài từ đông sang tây là bờ biển Thái Bình Dương Tây Bá Lợi Á qua Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, bán đảo lục địa Ấn Độ, Iran, Tiểu Tế Á đến Âu Châu. Giáp ranh vòng ngoài của mặt trăng lưỡi liềm ấy, tại nhiều nơi, nhưng đứng ngoài, ta thấy các nước Ả Rập, Phi Châu và Mỹ Châu.
15/11/2010(Xem: 7453)
Năm 938 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng kết thúc 1000 năm Bắc thuộc, bắt đầu thời kì tự chủ tiến tới xây dựng nền độc lập cho nước ta. Tuy nhiên tinh thần độc lập của nước Việt không phải bắt đầu từ sau chiến thắng ấy, mà nó đã tồn tại trong suốt thời gian Bắc thuộc, được thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa của bà Trưng, bà Triệu cho đến Phùng Hưng, rõ ràng tinh thần quyết dành độc lập của dân Việt luôn được nuôi dưỡng, chắn chắn đó là đề tài luôn được người dân Việt bàn bạc sau lũy tre làng, trên những cánh đồng hay trong những câu chuyện đêm đêm bên bếp lửa. Tuy nhiên do chưa có một nhà nước để thống nhất các lực lượng, nên đã có nhiều nhóm hoạt động chứ không phải chỉ có phe nhóm của Ngô Quyền,
04/11/2010(Xem: 4370)
Vì có nhiều người thắc mắc việc Đạo Phật biến mất trên đất Ấn Độ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Độ, cũng là một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Độ Giáo, dưới quan điểm của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị.
22/10/2010(Xem: 7068)
Khi tìm những bài nói về về tương lai Phật giáo hoặc Phật giáo và tuổi trẻ, tôi lấy làm ngạc nhiên vì không dễ kiếmđược nhiều bài nói về đề tài phức tạp này để cốnghiến cho đọc giả của đặc san. Có lẽ do vì thống kê sinhhoạt Phật pháp không được đầy đủ và nền sinh hoạttại các chùa không mấy liên quan với nhau.
20/10/2010(Xem: 3471)
Không phải ngẫu nhiên mà phong trào phục hưng Phật giáo tại Ấn Độ, như chúng ta đã thấy được đề xướng bởi một nhân vật Tích Lan (1) là đại đức Anagarika Dharmapala. (2) Sự liên quan chặt chẽ giữa Phật giáo với chủ nghĩa quốc gia Tích Lan phát sinh từ lịch sử chính trị và tinh thần đặc biệt của Tích Lan. Phật giáo đã có mặt ở Tích Lan từ triều đại A Dục Vương, (3) thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Vào lúc đó nhà vua đã đích thân gửi hoàng tử là Ngài Mahinda (4) sang vua Devanampiyatissa xứ Tích Lan (Lanka). Chẳng bao lâu, Phật giáo trở thành quốc giáo của vương quốc Lanka và tồn tại mãi đến khi người Anh chấm dứt vương quyền tại xứ này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]