Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết 3: Cuộc kết tập tại thành Tỳ Xá Ly

05/01/201202:25(Xem: 5947)
Tiết 3: Cuộc kết tập tại thành Tỳ Xá Ly

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trídịch

---o0o---

CHƯƠNG III

NGUYÊN THỈ PHẬT GIÁO VÀ TAM TẠNG KINH ĐIỂN

TIẾT III. CUỘC KẾT TẬP TẠI THÀNH TỲ XÁ LY

- Khởi Nguyên Cuộc Kết Tập Lần Thứ Hai.

Như mọi người đều biết, Ấn Độ thời đức Phật còn tại thế, thì ở tây Ấn Độ là trung tâm, là giáo khu của Bà La Môn giáo, và có truyền thống bảo thủ. Trong khi tại đông Ấn Độ, dọc theo dải Ma Kiệt Đà lại mở ra chân trời mới với phong trào tự do tư tưởng. Ngay như thuyết “nghiệp lực” và Áo Nghĩa Thư đều phát triển tại phương đông cùng với vương triều Tỳ Đế Ha (Vedeha). Đức Phật - người thuộc tộc Thích Ca cũng là một chi của phương đông. Phật Giáo cũng dựa vào hoàn cảnh tự do tư tưởng mà phát đạt. Vì vậy, nên tư tưởng của đức Phật rất coi trọng sinh hoạt thực tế. Đến độ lấy sinh hoạt thực tế làm nguyên tắc. Ngay như lúc sắp nhập diệt, Đức Thích Tôn vẫn còn lo là các đệ tử sau này sẽ vướng vào các tiểu chi, tiểu tiết có thể gây trở ngại cho công cuộc phát triển giáo hóa. Do đó, Phật dặn dò thị giả - ngài A Nan rằng: “sau khi ta diệt độ, ông hãy triệu tập Tăng chúng và tuyên bố xả bỏ các “vi tế giới”. Vi tế giới là những việc nhỏ nhiệm, không quan trọng mà trong sinh hoạt thường nhật khi Phật còn tại thế đã chế định. Điều đó cho thấy đức Phật rất coi trọng sinh hoạt thực tế. Nghĩa là tự do “lấy, bỏ” miễn sao việc chế định giới luật phải thích nghi với sự tu tập. Đây là điểm thủy chung nhất quán của giới luật.

Nhưng, trong lần đại hội thứ nhất, Tôn giả A Nan một lần đọc lên di huấn của đức Phật, ngài lại quên là lúc ấy ngài không thỉnh thị đức Phật dạy rõ thế nào là phạm vi tế giới. Do vậy mới phát khởi một chuỗi tranh luận. Sau cùng, ngài Đại Ca Diếp với địa vị là người chủ trì cuộc Đại hội kết tập đưa ra quyết định: “những gì Phật dạy, chúng ta phải phụng hành theo, những gì Phật không dạy, không đem ra bàn luận ở đây”(19).

Thì ra, các Thượng tọa trưởng lão đều là những vị bảo thủ, mà Đại Ca Diếp là một trong những vị bảo thủ. Do đó, nội dung giới luật của lần Đại hội kết tập lần thứ nhất được ghi nhận là đại biểu cho tinh thần Thượng tọa, và những vị Thượng tọa thì củng cố đại vị lãnh đạo của họ.

Mặc dù vậy, ngài trưởng lão Phú Lan Na vẫn giữ thái độ tuy không tiếp nhận cùng phái với ngài Đại Ca Diếp, nhưng ngấm ngầm thay đổi tư tưởng. Cùng lúc ấy, ngài Phú Lan Na nhận được sự trọng thị từ các Tỳ kheo trung niên ở phía đông. Vì vậy, lần kết tập thứ hai diễn ra tại thành Tỳ Xá Ly, về mặt địa vực, thì hệ phía tây Ấn Độ thuộc về thành Ba Tra Ly Tử, và hệ phái đông Ấn Độ thuộc về thành Tỳ Xá Ly có biểu hiện tranh luận. Nhân vì sau khi Phật diệt độ, khu vực giáo hóa của Phật Giáo ngược lên theo phân chi của lưu vực sông Hằng là sông Diêm Ngu Na, từ đó phát triển rộng về hướng tây cho đến sông Ma Thâu La (nay là sông Juma thuộc tây ngạn sông Mutra), hình thành nên hệ Phật Giáo rất quan trọng ở tây Ấn Độ. Thời này tại đông Ấn Độ lấy thành Tỳ Xá Ly làm trung tâm của Tỳ kheo tộc Bạt Kỳ. Đối với vấn đề giới luật, thái độ của hệ phía đông khác với hệ phía tây. Sự thực đó là hiện tượng tự nhiên.

- Tình Hình Sôi Động Của Lần Thất Bách Kết Tập.

Tuy trong luật cho rằng đây là thời cách Phật nhập diệt đã xa khoảng trăm năm. Nếu lấy sự tham gia đông đúc của các trưởng lão trong lần đại hội này, theo một trưởng lão đệ tử ngài A Nan phát biểu, thì lần Đại hội kết tập này diễn ra cách Phật nhập diệt trong vòng một trăm năm.

Nhân có trưởng lão Tỳ kheo Da Xá Ca Kiền Đà Tử (Yasa Kakandakal Putta) là người của hệ phía tây đi tuần hóa đến thành Tỳ Xá Ly, thấy các Tỳ kheo ở phía đông cứ mỗi nửa tháng vào các ngày mùng tám, mười bốn và ngày rằm, dùng bình bát đựng đầy nước, và tụ tập người tại địa phương lại một nơi rồi yêu cầu họ - các bạch y - thí tiền. Trong số các bạch y có người không đồng ý cúng tiền, còn chê trách rằng: các Sa môn Thích tử không nên cầu thí kim tiền. Thấy vậy, trưởng lão Da Xá liền trách cứ các Tỳ kheo cầu bạch y cúng tiền, và nói: “cầu thí như vậy là không đúng tinh thần giáo pháp”. Lại hướng về đám tục nhân, và nói: “các ngươi không nên cúng thí tiền, ta từng đích thân theo Phật nghe pháp, nếu ai cầu thí không đúng với giáo pháp, cũng như những ai cúng thí không đúng với giáo pháp, cả hai đều đắc tội(20).

Việc ngài Da Xá hướng các tục nhân nói là họ sai trong việc cúng thí kim tiền, nên các Tỳ kheo yêu cầu ngài hướng về các bạch y mà bày tỏ yết ma (tức tạ lỗi). Ngài Da Xá không đồng ý tạ lỗi, và ngài vẫn khẩn thiết yêu cầu các Tỳ kheo không nên cầu thí kim tiền. Việc làm này của ngài được các tục nhân hết sức ca ngợi và kính ngưỡng. Kết quả ngài Da Xá không được các Tỳ kheo của tộc Bạt Kỳ dung nạp. Ngài liền đi về phía tây và nhằm vào các Đại đức trưởng lão có danh vị mà du thuyết. Rồi ngài trở lại thành Tỳ Xá Ly triệu tập đại hội để làm sáng tỏ vấn đề giới luật.

Trưởng lão Da Xá đã không nệ nhọc nhằn để đi cả nghìn dặm. Ngài đến tận địa phương của Tỳ kheo Ba Lỵ Da - người nổi tiếng về tu khổ hạnh đầu đà (địa xứ này cách Ma Thâu La năm trăm dặm về phía tây). Ngài đến địa phương của Tỳ kheo A Bàn Đế, đến trú xứ của Tỳ kheo Đạt Thấn Na (ở Nam Sơn), quan trọng hơn cả là ngài tranh thủ đi đến địa phương Ma Thâu La của trưởng lão Tam Bồ Đề, đến địa phương Tát Hàn Nhã của trưởng lão Ly Bà Đa. Tỳ kheo của bộ tộc Bạt Kỳ cũng bốn lần phản bác lại ngài Da Xá, và cho rằng nguyên ủy là do đức Phật đã dạy như vậy tại địa phương họ. Họ yêu cầu đại chúng trợ lực để giúp họ phản bác lại ngài Da Xá. Chung cuộc, việc du thuyết của ngài Da Xá đưa đến kết quả hết sức xán lạn. Đó là có đến bảy trăm vị Tỳ kheo cùng đến thành Tỳ Xá Ly tham dự đại hội. Vì có quá đông người dự đại hội, nhưng nếu tất cả cùng tham gia biện luận, e rằng sẽ không đưa đến kết quả. Do đó, các Tỳ kheo của cả hai phía đông, tây đồng ý mỗi phía được suy cử bốn vị Thượng tọa làm đại biểu. Tên tự của những vị được suy cử, các bộ Luật có sự ghi chép khác nhau. Xin tham khảo và liệt kê tên tự của các vị Thượng tọa được suy cử như sau: Tát Bà Ca La, Ly Bà Đa, Tam Bồ Đề, Da Xá, Tu Ma Na, Sa La, Phú Xà Tô Di La, Bà Tát Ma Ca La Ma. Ngoài ra còn có một vị vừa thọ giới cụ túc được năm năm, nhưng có đủ khả năng đảm nhận việc giáo hóa, và đã tỉnh thức giới luật nên được chọn lo việc bày xếp tọa cụ. Vị đó có tên là A Kỳ Đa (hoặc A Di Đầu), do vậy nên cộng cả thảy là chín vị. Chín vị này có nhiệm vụ xem xét, tra cứu và thẩm định tất cả mọi biện luận. Thực tế, những vị vừa nêu là đại biểu cho bảy trăm người tham dự Đại hội. Do đó, Đại hội này có tên là Thất Bách Kết Tập.

-Vấn Đề Mười Việc Phi Pháp.

Khởi đầu Đại hội lần này là đem việc các Tỳ kheo đề nghị bạch y cúng tiền. Nhưng nội dung được đưa ra thảo luận gồm có mười khoảnh. Được gọi là “Thập sự phi pháp” của Tỳ kheo tộc Bạt Kỳ, đó là:

1. Giác diêm tịnh: Nghe trữ muối ăn trong giác khí.

2. Nhị chỉ tịnh: Tức là tính theo bóng mặt trời, sau và chưa quá nửa ngày (đứng bóng) hai cách chỉ bóng mặt trời, như ăn chưa no, thì có thể ăn tiếp để no.

3. Tha tụ lạc tịnh: Tức là sau khi ăn xong một bữa, lại đến một xóm làng khác ăn thêm lần nữa.

4. Trụ xứ tịnh: Tỳ kheo cùng ở trong rừng khu (giới nội), có thể không bố tát với nhau trong cùng một trụ xứ.

5. Tùy ý tịnh: khi tăng chúng đã quyết định nơi nghị xứ (nơi hội nghị), thì tuy tất cả không cùng tham dự, nhưng để quyết định có hiệu lực, yêu cầu tăng chúng sau khi quyết định đã đưa ra thì mọi người đều tuân phục là được.

6. Sở tập tịnh: tức thuận theo những đièu đã được quyết định trước đó.

7. Sinh hòa hiệp (bất toản dao) tịnh: Tức được uống sữa bò chưa bị khuấy cho đóng ván đông đặc lại.

8. Ẩm xà lâu nghi tịnh: Xà lâu nghi là nhựa cây Câu Lang Tử chưa lên men, hoặc vừa lên men thì được lấy để uống.

9. Vô duyên tọa cụ định: khi may tọa cụ không được phép thêm biên, cũng như không được múon to nhỏ tùy thích.

10. Kim ngân tịnh: Tức là tùy ý nhận kim ngân.

Tỳ kheo tộc Bạt Kỳ của thành Tỳ Xá Ly cho rằng, mười việc nêu trên là được phép; vì hợp pháp (tịnh giới). Trong khi ngài Da Xá thi cho rằng mười việc trên là không phù hợp với luật chế.

Mục đích của lần kết tập thứ hai này là nhằm thẩm tra mười việc nêu trên được căn cứ vào luật chế nào. Kết quả thẩm tra hoàn toàn dựa vào các ghi chép trong luật điển, các vị Thượng tọa đồng ý thông qua mười việc trên là phi pháp (Thập sự phi pháp).

Kỳ thực, nếu theo ý chỉ của đức Phật mà cân nhắc, thì “ Thập sự” này thuộc phạm vi của vi tế giới được ngài A Nan thuật lại lời di huấn của Phật là nên bỏ đi. Nhưng cung cách xử lý của các vị Thượng tọa là rất tôn trọng đối với những điều do đức Phật chế định. Vì vậy, chư vị Thượng tọa đều đứng về ngài Da Xá. Do đó, trong Luật văn có tăng bổ thêm “Thập sự”, và được chép thành văn. Như vậy, lần kết tập thứ hai này tuy gọi là kết tập thực thì chỉ vì Thập sự phi pháp mà thôi.

Như vậy, các Tỳ kheo Bạt kỳ coi như bị thảm bại trong kỳ đại hội này, nên lòng cảm thấy bất bình. Truyền thuyết rằng có sự kết tập riêng của đại chúng thuộc hệ phía đông. Cũng từ đó tách ra khỏi phái Thượng tọa, và trở thành hai phái. Điều đáng chú ý là quốc vương của thành Tỳ Xá Ly cũng tỏ ra bất mãn với một số Thượng tọa là khách mời, cho nên sau khi kết thúc đại hội, quốc vương lệnh cho các vị ấy rời khỏi thành Tỳ Xá Ly. Diễn biến này ngấm ngầm ẩn chứa khuynh hướng phản thành hệ phái đông thuộc Đại Chúng Bộ, và hệ phía tây thuộc Thượng Tọa Bộ.

- Kết Tập Lần Thứ ba.

Việc kết tập thánh điển Phật Giáo; theo truyền thuyết thì có hai lần kết tập thứ ba, và hai lần kết tập thứ tư. Duy có điều, lần kết tập thứ ba có hay không diễn ra? Nếu là có, thì thời đại của cuộc kết tập rất khó định luận. Theo sự nghiên cứu của pháp sư Ấn Thuận, ông đưa ra ba thuyết về sự sai hiện của hệ Thượng tọa.

1. Truyền thuyết về Độc Tử Bộ.

Chuyện kể rằng, sau Phật diệt độ một trăm ba mươi bảy năm, tại thành Ba Tra Ly Tử có con ma tên là Chứng Hiển, hóa hiện thành vị La Hán, và cùng tăng chúng tranh luận mười sáu năm không dứt, may có vị Tỳ kheo tên là Độc Tử, ngài triệu tập tăng chúng, và khiến họ hòa hợp, nhờ đó mới dứt tranh luận. Bấy giờ có vị hộ pháp là vua Nan Đà. Và cuộc triệu tập tăng chúng của ngài Độc Tử được gọi là lần kết tập thứ ba.

2. Truyền thuyết của hệ Phân Biệt Thuyết.

Tương truyền rằng sau Phật Niết bàn khoảng hai trăm ba mươi năm, tại thành Hoa Thị (Dàtaliputta) có tặc trú Tỳ kheo khởi tranh, khiến vua A Dục phải nghênh đón ngài Mục Kiền Liên Tử Đế (Moggali Puta Tissa) đứng ra triệu tập một nghìn vị Tỳ kheo cu hội mới chấm dứt được cuộc tranh luận. Và đây cũng được gọi là cuộc kết tập lần thứ ba.

3. Truyền thuyết của hệ Nhất Thiết Hữu.

Truyền rằng sau Phật Niết bàn khoảng bốn trăm năm. Có vua Ca Nị Sắc Ca thâm tín Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, nhà vua cho triệu tập năm trăm vị Đại đức qui tụ về nước Ca Thấp Di La, đem tam tạng Thánh điển Kinh Luật ra gạn bỏ đi những dị thuyết(21). Trong ba truyền thuyết, thì truyền thuyết thứ ba được coi là lần kết tập thứ tư. Sự tích về truyền thuyết này sẽ giới thiệu ở phần sau. Tư liệu liên quan đến việc kết tập thánh điển Tiểu thừa và Đại thừa có thể tham khảo Phật Giáo Đại Từ Điển của Vọng Nguyệt Thị, từ trang 902-904, xem phần tự thuật để rõ thêm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/12/2010(Xem: 3811)
Mùa Xuân là mùa đâm chồi nẫy lộc của thiên nhiên. Cách đây hơn 25 thế kỹ, nhân loại cũng đã chứng kiến một hiện tượng “đâm chồi nẫy lộc” khác vĩ đại và tuyệt vời hơn nhiều. Không phải của thiên nhiên mà của trí tuệ, không phải làm đẹp cảnh vật mà làm sáng lên một con đường giải phóng chúng sinh thoát khổ. Hiện tượng khai hoa nở nhụy đó là sự thành hình của Tăng đoàn Phật giáo (Tăng già, Sangha) do chính Đức Phật khai sinh, nuôi dưỡng và uốn nắn để từ đó lớn lên, lan rộng, vượt thời gian, tồn tại cho đến ngày nay dưới những chiếc tăng bào nhiều màu sắc trên khắp mặt địa cầu.
26/12/2010(Xem: 3747)
Dân số thế giới: 7 tỷ, trong đó, Á châu: 4 tỷ (Trung Quốc có 1.3 tỷ, Ấn Độ có 1.1 tỷ). Đạo Phật: 500 triệu tín đồ, đa số ở Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á, và một phần của Nga. Việt Nam: dân số 84 triệu, Phật giáo 83% (70 triệu; gồm Bắc tông 78% và Nam tông 5%), Gia-tô giáo 7%, Cao Đài 2%, các đạo khác và vô tôn giáo 8%).
25/12/2010(Xem: 4674)
Lịch Sử Kết Tập Kinh Điển , Bình Anson minh họa bằng biểu đồ và hình ảnh
25/12/2010(Xem: 9526)
Phật giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN. Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người, và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
24/12/2010(Xem: 6355)
Nếu ta dở bản đồ thế giới, ta sẽ thấy Á Châu chiếm một vùng đất mênh mông hình mặt trăng lưỡi liềm, hai đầu chỉa về hướng bắc, vòng trong đi theo duyên hải Biển Bắc Cực của xứ Scandinavia và Tây Bá Lợi Á. Vòng ngoài từ đông sang tây là bờ biển Thái Bình Dương Tây Bá Lợi Á qua Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, bán đảo lục địa Ấn Độ, Iran, Tiểu Tế Á đến Âu Châu. Giáp ranh vòng ngoài của mặt trăng lưỡi liềm ấy, tại nhiều nơi, nhưng đứng ngoài, ta thấy các nước Ả Rập, Phi Châu và Mỹ Châu.
15/11/2010(Xem: 7423)
Năm 938 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng kết thúc 1000 năm Bắc thuộc, bắt đầu thời kì tự chủ tiến tới xây dựng nền độc lập cho nước ta. Tuy nhiên tinh thần độc lập của nước Việt không phải bắt đầu từ sau chiến thắng ấy, mà nó đã tồn tại trong suốt thời gian Bắc thuộc, được thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa của bà Trưng, bà Triệu cho đến Phùng Hưng, rõ ràng tinh thần quyết dành độc lập của dân Việt luôn được nuôi dưỡng, chắn chắn đó là đề tài luôn được người dân Việt bàn bạc sau lũy tre làng, trên những cánh đồng hay trong những câu chuyện đêm đêm bên bếp lửa. Tuy nhiên do chưa có một nhà nước để thống nhất các lực lượng, nên đã có nhiều nhóm hoạt động chứ không phải chỉ có phe nhóm của Ngô Quyền,
04/11/2010(Xem: 4356)
Vì có nhiều người thắc mắc việc Đạo Phật biến mất trên đất Ấn Độ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Độ, cũng là một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Độ Giáo, dưới quan điểm của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị.
22/10/2010(Xem: 7021)
Khi tìm những bài nói về về tương lai Phật giáo hoặc Phật giáo và tuổi trẻ, tôi lấy làm ngạc nhiên vì không dễ kiếmđược nhiều bài nói về đề tài phức tạp này để cốnghiến cho đọc giả của đặc san. Có lẽ do vì thống kê sinhhoạt Phật pháp không được đầy đủ và nền sinh hoạttại các chùa không mấy liên quan với nhau.
20/10/2010(Xem: 3466)
Không phải ngẫu nhiên mà phong trào phục hưng Phật giáo tại Ấn Độ, như chúng ta đã thấy được đề xướng bởi một nhân vật Tích Lan (1) là đại đức Anagarika Dharmapala. (2) Sự liên quan chặt chẽ giữa Phật giáo với chủ nghĩa quốc gia Tích Lan phát sinh từ lịch sử chính trị và tinh thần đặc biệt của Tích Lan. Phật giáo đã có mặt ở Tích Lan từ triều đại A Dục Vương, (3) thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Vào lúc đó nhà vua đã đích thân gửi hoàng tử là Ngài Mahinda (4) sang vua Devanampiyatissa xứ Tích Lan (Lanka). Chẳng bao lâu, Phật giáo trở thành quốc giáo của vương quốc Lanka và tồn tại mãi đến khi người Anh chấm dứt vương quyền tại xứ này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]