Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Sáu Ðộ

10/10/201112:59(Xem: 7353)
03. Sáu Ðộ

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 2: GIÁO LÝ CĂN BẢN

Sáu Độ

I.- Dẫn: Sáu Độ hay cũng còn gọi là Ba La Mật, Ba La Mật là tiếng Phạn Parâmitas, người Trung Hoa dịch ra là Độ, có nghĩa là vượt qua, cũng có nghĩa là hoàn toàn, tức là vượt từ bến Mê, qua bên kia bờ Giác, vượt từ chỗ đau khổ đến chốn an vui giải thoát. Vậy Sáu Độ là sáu phương tiện tu, để đưa chúng sanh từ Vô minh đến cảnh giới Niết Bàn.

II.- Sáu độ: Sáu Độ gồm có: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ.

1) Bố thí: Đem cho người khác những gì của mình có, đó gọi là Bố thí, gồm có ba thứ:

a) Tài thí: Gặp những hoàn cảnh khốn khổ của người nghèo khó, đem cứu giúp, cho họ những của cải như tiền bạc, ruộng đất, nhà cửa, xe cộ... để làm phương tiện sống, đó là Tài thí, ngược lại, không nên cho người khác tiền của, phương tiện để làm những việc độc ác, chẳng may làm như vậy chúng ta sẽ bị quả báo xấu.

b) Pháp thí: Đem những điều hiểu biết về Phật Pháp, giảng giải cho người khác nghe, tin theo, làm thiện, lánh ác theo lời Phật dạy. Dẫn dắt người chung quanh tu học, ăn chay, niệm Phật, ngồi thiền, tụng kinh đều là Pháp thí.

c) Vô úy thí: Sự lo nghĩ, sợ sệt đều làm cho con người rất khổ, cho nên một lời an ủi, một câu vỗ về làm cho người khác an tâm, không sợ hãi, đó là Vô úy thí. Bồ Tát Quán Thế Âm thường ban cho chúng sanh sự không sợ hãi, cho nên mỗi khi gặp sự sợ hãi, người ta hay cầu đến đức Quán Thế Âm Bồ Tát để cho tâm mình được an lành. Trong Tâm Kinh có câu "... Bởi vậy chư vị Bồ Tát nương theo pháp Bát Nhã Ba La Mật, nên tâm không bị chướng ngại, vì tâm không chướng ngại, nên không sợ hãi, xa lìa những vọng tưởng xáo trộn đến chỗ rốt ráo Niết Bàn..." . Kinh A Di Đà cũng dạy rằng, một người chuyên tâm niệm Phật, lúc sắp chết, tâm không điên đảo, liền được sanh về cõi Cực lạc. Cho nên giúp cho người khác được an tâm, không sợ hãi một điều gì đó là một việc khá quan trọng.

2) Trì giới: Giữ giới là điều rất quan trọng. Khi đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn, ngài A Nan hỏi nhiều điều quan trọng, đức Phật đã dạy phải tôn trọng giới luật như là thầy vậy. Nội dung trì giới gồm có :

a) Giữ giới: Giới là căn bản chân chánh của sự giải thoát, nơi phát sanh mọi điều thiện, công đức và sự an ổn cho thân tâm. Nhờ giữ giới mà có thiền định, nhờ thiền có trí tuệ phát sinh. Phật chế ra 5 giới cho hàng cư sĩ tại gia, 6 giới nặng và 28 giới nhẹ cho các vị Bồ Tát tại gia, 10 giới cho Sa Di và Sa Di Ni, 250 giới cho Tỳ kheo (Cụ túc giới), 348 giới cho Tỳ kheo ni, còn Bồ Tát giới xuất gia có 10 giới nặng và 48 giới nhẹ.

b) Giữ mình chỉ làm điều thiện: Luôn luôn giữ thân, khẩu, ý là làm, nói, suy nghĩ những điều thiện mà thôi. Kinh sách đã dạy :

Đừng làm điều ác
Các điều thiện nguyện làm
Tự thanh tịnh ý mình
Đó là chư Phật dạy.

c) Hóa độ cứu khổ chúng sanh: Đạo Phật người ta còn gọi là đạo Từ Bi tức là đem vui tới để cứu khổ cho chúng sanh. Cứu khổ cho người tức là chúng ta đã gieo nhân lành, ra ơn giúp người không cầu người báo đáp lại, tuy nhiên làm việc thiện thì luôn luôn có phước báo ở mai sau.

3) Nhẫn nhục: Có người giải thích rằng nhẫn tức là chịu đựng, nhục tức là phải chịu nhục nhã, giải thích như vậy cũng có phần đúng, nhẫn nhục có bốn phần.

a) Nhẫn trong thuận cảnh: Gặp những khi người ta khen mình, đừng lấy đó tự tôn, cho rằng mình hay, mình giỏi hơn mọi người, để rồi kiêu căng và tự đắc. Đọc, thuộc, một vài quyển kinh, chưa chắc mình đã hiểu hết ý nghĩa trong kinh đó, hiểu chưa chắc mình đã làm theo lời Phật dạy, làm chưa chắc mình đã chứng đắc.

Bạch Cư Dị là một đại thi hào Trung Hoa đời Đường, ông ta tìm Thiền sư Ô Sào hỏi:

- Xin cho biết đại ý Phật Pháp.

Thiền sư bảo :

- Đây là một câu rất dễ, hãy nghe ta nói đây:

Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.

(Nghĩa đã ghi ở trên)

Bạch Cư Dị nghe xong liền nói:

- Những lời Sư vừa đáp, con nít lên ba cũng nói được!

Thiền sư Ô Sào bảo:

- Con nít lên ba cũng nói được, nhưng ông già 80 chưa chắc đã làm xong, ngài nghĩ có phải vậy không?!

b) Nhẫn trong nghịch cảnh: Vì tu là phải hiền lành, cho nên dù có gặp những cảnh người ta chửi, mắng cũng phải làm thinh, nín chịu. Hãy xem như một kiếp nào đó mình đã gây nhân không thiện nên bây giờ gặp quả xấu, vui vẻ nhận lấy, không bực tức, thù hằn. Trái lại còn cám ơn hoàn cảnh đã tạo ra dịp thử thách để cho mình lập hạnh nhẫn nhục.

c) Nhẫn ở trong: Dù cho bên ngoài xã hội có đưa đến cho ta những sự trắc trở, phiền muộn, tâm ta phải giữ cho được thanh tịnh luôn luôn.

d) Nhẫn ở ngoài: Những hoàn cảnh xãy đến như đói rách, cơ cực, nghèo hèn, bệnh hoạn vẫn giữ được bình thường, tinh tấn trong tu học.

4) Tinh tấn: Người tu phải luôn luôn tiến tới trên bước đường tu học, nó gồm có bốn phần :

a) Các điều ác chưa sanh: Các điều ác trong hành động, lời nói, ý nghĩ chưa sanh, giữ gìn không cho nó sanh ra.

b) Các điều ác đã sanh: Chúng ta phải diệt trừ các điều ác, làm ác tức là có tội, trong bài sám có ghi :

Tội từ TÂM khởi, đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu.
Tội tiêu, Tâm tịnh thảy đều không,
Thế mới thật là chơn sám hối.

c) Các điều thiện chưa sanh: Như chúng ta chưa thương người, chưa cứu giúp người, hãy tập thương người, cứu giúp, bố thí cho người. Đó là ta làm cho các điều thiện nảy sanh.

d) Các điều thiện đã sanh: Những việc thiện mà chúng ta đã làm, hãy làm nhiều hơn nữa, hôm nay ta bố thí ít, ngày mai bố thí, cúng dường nhiều hơn. Các điều thiện đã làm, chúng ta làm cho nó lớn hơn ra.

5) Thiền định: Thiền định là pháp môn làm cho tâm ta thanh tịnh, tâm có thanh tịnh thì trí huệ sanh. Trong thiền có Ngũ đình tâm quán, để đối trị với chứng bất trị của tâm chúng ta.

a) Quán hơi thở: Sơ cơ tu theo ngồi thiền, người ta hay tập Quán hơi thở, tức là theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra để cho tâm mình được tập trung vào hơi thở, không nghĩ bông lung những chuyện nọ, chuyện kia, trị tâm tán loạn.

b) Quán hạnh Từ bi: Xem chúng sanh đều có Phật tính, bình đẳng do đó không thù ghét mà phải thương yêu, phép này để đối trị lòng sân hận.

c) Quán sự không thanh tịnh: Xem xét thân thể người ta chỉ là xương, là thịt, là máu mủ tanh hôi, chết rồi người ta còn ghê tởm, để không tham đắm vào sắc dục.

d) Quán về pháp Nhân duyên: Xem xét vạn pháp đều giả hợp, do nhân duyên mà có, khi nhân duyên hết sẽ tan rã, không trường tồn để đối trị lòng tham mê vật chất như nhà cửa, xe cộ, ruộng vườn.

e) Quán theo Niệm Phật : Quán công đức, tướng hảo của chư Phật, nhờ đó trị được phiền não.

Cũng là Ngũ đình tâm quán, thay vì Quán theo niệm Phật là Quán về 18 giới, đều không có "ngã, pháp", để đối trị Ngã chấp.

6) Trí tuệ: Chỉ cho sự hiểu biết sáng suốt, dùng chánh trí để nhận hiểu, phân biệt sự chân thật của muôn vật, không nhận giả làm chơn, không nhận hư làm thật, không chấp chặt thành kiến sai lầm của mình, không theo cổ tục di truyền vô nghĩa, không mê theo những tà thuyết, mê tín dị đoan.

Thường tìm hiểu sự thật và hành theo đúng với sự thật. Các món trí huệ gồm có :

a) Có trí huệ do xét nghe chánh lý. (Văn)
b) Có trí huệ do suy nghiệm chánh lý. (Tư)
c) Có trí huệ do thực hành chánh lý. (Tu)

Nhờ có trí huệ phát chiếu thì vô minh được phá tan, phiền não sẽ tiêu trừ, thấy rõ được sự thật vạn vật chỉ giả có, vô thường, như hư ảo mà thôi, nhờ trí tuệ sẽ phá chấp những sai lầm gây khổ đau, gây ác nghiệp phải chịu luân hồi trong sáu nẽo, từ đó chúng ta tu hành để sớm giải thoát.

III.- Kết luận:

Khi đã nhận thức được đạo Phật là con đường giải thoát khỏi sanh tử, luân hồi, người Phật tử chúng ta phải thực hành Sáu độ, pháp môn nầy chẳng những tu sửa nghiêm trang thân tâm ta mà còn giúp ích cho mọi người, công hạnh rất lớn lao, hành Bồ Tát đạo, nhất thiết phải theo Sáu độ.

Louisville, Kentucky 11/96
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2022(Xem: 6482)
Các trung tâm giáo dục Phật giáo ở Ấn Độ và Sri Lanka như Đại học Phật giáo Nālanda và Đại học Phật giáo Mahāvihāra đã đem lại một nguồn năng lượng trong sự nghiệp giáo dục tuyệt vời. Không chỉ duy trì mạng mạch Phật giáo, các trung tâm giáo dục Phật giáo còn tạo ra một xã hội hòa bình ở hầu hết các quốc gia châu Á trong hơn 25 thế kỷ qua.
04/01/2022(Xem: 7513)
Đại Bảo tháp tại Sanchi được kiến tạo vào thời trị vì của vị minh quân thánh triết Ashoka, nhân vật vĩ đại trong lịch sử của Ấn Độ, vị vua Phật tử hộ trì chính pháp Phật đà, người đã có công trải rộng và phát triển giáo pháp đức Phật trong suốt những năm ông ta trị vì; và luôn luôn mong mỏi được truyền bá khắp 5 Châu 4 bể. Một cấu trúc vòm bằng gạch, được xây dựng theo kiểu mẫu vũ trụ Phật giáo. Xuyên qua tam vòng tròn là một cột trụ vươn lên, qua đỉnh vòm, tượng trưng cho cột đỡ vũ trụ. Trên cùng của nó là 3 đĩa tròn, biểu thị Tam bảo (ba ngôi báu, Phật, Pháp, Tăng), được xem là một trong những khu kiến trúc bằng đá cổ nhất Ấn Độ, những di tích Phật giáo tại Sanchi là những miêu tả kinh điển cho nghệ thuật và kiến trúc của triều đại Maurya dưới hình thức Bảo tháp (Stupa), những ngôi tự viện linh thiêng của đạo Phật.
04/01/2022(Xem: 4482)
Ngôi già lam cổ tự Ta Som (tiếng Khmer: ប្រាសាទតាសោម), ngôi chùa nhỏ ở trong quần thể Thánh địa Phật giáo Angkor, Vương quốc Phật giáo Campuchia, được kiến tạo vào cuối thế kỷ 12 cho Quốc vương Jayavarman VII (tại vị: 1181-1215?). Ngôi già lam cổ tự tọa lạc tại dông bắc của Angkor Thom và ngay phía đông của Neak Pean ("con rắn quấn") tại Angkor, một hòn đảo nhân tạo với một chùa trên một đảo hình tròn ở Preah Khan Baray được xây trong thời kỳ trị vì của đức Quốc vương Jayavarman VII vị anh minh Phật tử hộ pháp Đại thừa Phật giáo, vị vua thần hộ trì chính pháp đầy nhân ái, người đã xả thân lưu lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Đức Quốc vương Jayavarman VII còn có công xây dựng vô số bệnh viện khắp đất nước Campuchia.
30/12/2021(Xem: 2917)
Không phải lúc nào cũng được xem là nghệ thuật như bối cảnh ban đầu vốn có, các hiện vật mà bây giờ chúng ta phân loại là “nghệ thuật Phật giáo” (Buddhist art), mặc dù có được kỹ thuật thủ công tuyệt xảo và tính thẩm mỹ sâu sắc, chúng được tạo ra với mục đích tôn nghiêm thờ phụng, sinh hoạt văn hóa tâm linh và tích lũy công đức. Giống như nhiều thuật ngữ chính của Phật giáo bị hiểu sai ở phương Tây, thì hình ảnh Phật giáo cũng vậy. Trên thực tế, việc lạm dụng hình tượng Đức Phật trở nên tràn lan, đến nỗi cộng đồng Phật giáo ở Bangkok, Thái Lan cảm thấy cần phải đặt dấu hiệu cảnh báo trên khắp thành phố để giáo dục du khách thập phương rằng "Đức Phật không phải để trang trí" (Buddha is not for decoration) một cách lạm dụng
22/12/2021(Xem: 3873)
Hindustan Times khẳng định, Đoàn nhà khảo cổ học người Ý và các nhà khai quật Pakistan đã khai quật ngôi già lam cổ tự 2.300 tuổi tọa lạc tại Quận Swat, Thung lũng Swat, vùng địa lý tự nhiên bao quanh sông Swat. Thung lũng là trung tâm chính của Ấn Độ giáo và Phật giáo thời kỳ đầu dưới vương quốc Phật giáo Gandhāra cổ đại, vùng miền Tây bắc Ấn Độ, ngày nay thuộc về Afghanistan và một phần của Pakistan và là trung tâm chính của Phật giáo Gandhāra, với các quần thể Phật giáo tồn tại trong thung lũng cho đến thế kỷ thứ 10, sau đó khu vực này phần lớn trở thành người Hồi giáo.
24/10/2021(Xem: 2926)
Thủ tướng Thái Lan Prayut Chan-o-cha cho biết, bắt đầu từ ngày 1 tháng 11 tới, Vương quốc Phật giáo này sẽ mở cửa chào đón du khách thập phương hành hương từ 46 quốc gia, thay vì trước đây chỉ công bố 10 quốc gia có nguy cơ thấp bởi dịch Covid-19.
24/10/2021(Xem: 2751)
Hôm thứ Tư, ngày 20 tháng 10 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Ấn Độ Narendra Modi đã phát biểu miêu tả rằng: "Đức Phật là nguồn cảm hứng cho Hiến pháp Ân Độ đến tận ngày nay; Đức Phật luôn Ngự trong tâm hồn của nhân loại và kết nối các nền văn hóa và quốc gia khác nhau."
23/09/2021(Xem: 4584)
Bài Khảo Luận nầy nay đã in lại và trở thành CHƯƠNG MỘT của tác phẩm nầy. Chương hai có tựa đề là: VIỆT NAM PHẬT GIÁO TRUYỀN QUA TRUNG QUỐC. Những chương khác nghiên cứu về Phật, Bồ Tát, các Kinh, Luận...là những Kinh, Luận, Bồ Tát... rất uyên thâm, nỗi tiếng, tiêu biểu cho Giáo Lý Phật Giáo của tất cả các tông phái Phật Giáo đang hành đạo tại Việt Nam. Phần cuối của tác phẩm là những phụ lục. Trong đó 3 phụ lục đầu là 3 bài tham luận đã thuyết trình trong 3 lần hội thảo quốc tế, có ghi rõ thời gian và nơi chốn hội thảo. Những phụ lục còn lại là những bài khảo luận nghiên cứu về giáo lý Phật Giáo. Như vậy xét về nội dung tác phẩm nầy không phải là sách chuyên khảo cứu về Lịch Sử Du Nhập và Truyền Thừa của Phật Giáo Việt Nam. Mục đích của tác giả là muốn cho thế hệ người Việt Nam trẽ lưu tâm nghiên cứu sâu, tìm hiểu, phát huy những điểm son lịch sử hào hùng của Dân Tộc Việt, viết lên cho thế giới biết Dân Tộc Việt Nam có lịch sử Hào Hùng, Minh Triết về mọi thời đại, mọi lãnh vực tro
31/03/2021(Xem: 11023)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
18/01/2021(Xem: 7672)
Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh tồn và phát triển. Dân tộc Việt Nam là một chủng tộc có ngôn ngữ riêng biệt thuần nhất, có nền văn hóa nhân bản đặc thù, siêu việt và nền văn hóa này có khả năng chuyển hóa, dung hợp tinh ba của tất cả nền văn hóa nhân loại biến thành chất liệu sống và ý nghĩa sự sống bồi dưỡng cho sanh mệnh dân tộc mang tánh chất Rồng Tiên nẩy nở phát triển và trường tồn bất diệt trải dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến kể từ khi lập quốc cho đến ngày nay. Đặc tánh Rồng Tiên, theo Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng Tộc Việt Nam), dân tộc Việ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567