Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài nét về dòng truyền thừa Sakya

16/04/201211:33(Xem: 4780)
Vài nét về dòng truyền thừa Sakya

VÀI NÉT VỀ DÒNG TRUYỀN THỪA SAKYA

truyenthuaSakya-01

Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạng vì lợi lạc của chúng sinh. Có mười thế hệ nối tiếp trước khi Đạo Sư Liên Hoa Sinh đến Tây Tạng. Vào thời điểm đó, các ngài được biết đến là Lha Rig. Sau tám thế hệ, do sự tranh cãi với vị lãnh đạo Yaksha, Lha Rig trở nên nổi tiếng là Khon, nghĩa là “tranh cãi” hay “xung đột”. Năm 750 sau Công nguyên, gia tộc Khon trở thành đệ tử của đức Liên Hoa Sinh và nhận các quán đảnh Vajrakila. Một người con trai trong gia tộc nhận giới xuất gia từ đức Shatirakshita ở [tu viện] Samye, trở thành một trong bảy dịch giả tăng sĩ đầu tiên của Tây Tạng. Trong mười ba thế hệ sau đó (750- 1073), gia tộc Khon trở thành cột trụ chính cho các giáo lý của truyền thống Cổ Mật ở tỉnh Tsang.

truyenthuaSakya-02Vào thế kỷ 11, do sự vô minh của chúng sinh, thực hành Pháp trở nên lỏng lẻo ở tỉnh Tsang. Trưởng tộc, ngài Sherab Tsultrim quyết định rằng đã đến lúc tìm kiếm các Mật điển mới ở Ấn Độ. Đạo sư Liên Hoa Sinh viết rằng, “một hóa thân của Virupa xứ Ấn Độ - Drogmi Lotsawa sẽ xuất hiện.” Người em, Konchog Gyalpo đến học với Drogmi Lotsawa (992 – 1074). Tại địa điểm linh thiêng, dưới nền đất màu trắng (tiếng tạng là Sa skya), được tiên đoán bởi đạo sư Liên Hoa Sinh và đức Atisha, Khon Knochog Gyalpo xây dựng ngôi chùa đầu tiên đặt tên là Gorum Zimchi Karpo năm 1073. Sự kiện này đánh dấu sự bắt đầu cho tên gọi “Sakya.” Gia đình linh thánh, các vị lãnh đạo cha truyền con nối của dòng truyền thừa cao quý này, nổi tiếng với ba tên gọi, Lha Rig, Khon và Sakya.

Sachen Kunga Nyingpo (1092 – 1158), con trai của Khon Konchog Gyalpo, là người có kỹ năng và sự chứng ngộ tâm linh phi thường, nắm giữ dòng truyền thừa của Kinh và Mật. Các vị đạo sư chính của ngài đầu tiên phải kể đến cha ngài, mà từ đó ngài nhận được hệ thống thực hành Vajrakila và Samputa. Từ đức Bari Lotsawa, ngài nhận được Chakrasamvara, Guhysamaja, Vajrabhairava và nhiều pháp khác; từ Shangton Chobar, ngài nhận được toàn bộ giáo lý Lamdre trong bốn năm cùng với các hệ thống Mahamaya và Samayogadakinijala. Từ Mal Lotsawa Lodro Drag, ngài nhận được Chakrasamvara, Bhairava, giáo lý của đại thành tựu giả Naropa như Vajrayogini và các giáo lý quan trọng của dòng truyền thừa của Panjrarnata Mahakala. Từ Lama Nam Kaupa, ngài nhận được mọi chỉ dẫn bên ngoài, bên trong và bí mật của Hộ Pháp Chaturmukha bốn mặt. Đây chỉ là các vị thầy chính của đức Sachen Kunga Nyingpo.

truyenthuaSakya-03Ở tuổi 12, trong cuộc nhập thất Văn thù sáu tháng, ngài đã có linh kiến về đức Văn Thù cùng với hai vị Bồ Tát, người đã nói với ngài những dòng trong cuốn “Tách rời khỏi Bốn Bám chấp”:

Với sự bám chấp vào cuộc đời này – sẽ không có học trò Pháp

Bám chấp vào Tam cõi – sẽ không có sự từ bỏ

Bám chấp vào mục đích cá nhân – sẽ không có tư tưởng giác ngộ

Nếu bám chấp khởi lên – sẽ không có tri kiến.

truyenthuaSakya-04

Sachen Kunga Nyingpo nhận các giáo lý Lamdre lần đầu tiên từ đức Shangton Chobar và lần thứ hai trực tiếp từ Virupa trong một chuỗi các linh kiến kéo dài một tháng. Đây được biết đến là dòng truyền thừa Lamdre “gần.” Sachen có bốn con trai – Kunga Bar, Sonam Tsemo, Jetsun Dragpa Gyaltsen và Palchen Rinpoche. Người đầu tiên mất khi đang học ở Nalanda, Ấn Độ. Người con trai thứ hai, Sonam Tsemo (1142 – 82) trở thành một học giả uyên bác ở tuổi 16. Ở tuổi 41, ngài đã bay thẳng về Khechara, cõi giới của Vajrayogini. Ngài có linh kiến về rất nhiều vị bổn tôn thiền định và rất nhiều vị đệ tử chứng đắc. Jetsun Dragpa Gyaltsen (1147 – 1216) nhận các giới nguyện độc thân và có nhiều dấu hiệu chứng ngộ trưởng thành tâm linh từ khi còn trẻ. Ở tuổi 11, ngài ban các giáo lý Hevajra.

truyenthuaSakya-05

Đệ tử chính của Jetsun Dragpa Gyaltsen là cháu trai ngài, con trai của Palchen của Opoche, ngài Sakya Pandita Kunga Gyaltsen nổi tiếng (1182 – 1251). Nghiên cứu các triết học Phật giáo và ngoại đạo, mật điển, logic, tiếng Phạn, thơ ca, chiêm tinh và nghệ thuật với rất nhiều đạo sư xứ Ấn Độ, Nepal, Kashmir và Tây Tạng, ngài đã nắm vững các chủ đề này. Khi ngài 27 tuổi, sau khi gặp ngài Pandita Shakya Shribhadra xứ Kashmir, ngài trở thành một vị tỳ kheo và duy trì giới nguyện không chút xao lãng. Các tác phẩm của ngài như Kho tàng Logic Tri thức Giá trị (Tsad-ma rigs-gter) và Sự Phân biệt Ba giới nguyện (sDom-gsum rab-dbye) vẫn nổi tiếng đến ngày hôm nay. Cả thảy ngài viết 114 bộ luận tôn giác. Kho tàng Logic Tri thức giá trị là bản văn duy nhất có nguồn gốc Tây Tạng được dịch ra tiếng Phạn. Công việc dịch thuật được hoàn thành bởi đệ tử của ngài ở tu viện Nalanda ở Magadha, và nhận được sự tôn vinh. “Vào thời điểm ngài thị tich, trái đất đã rung động sáu lần và chim chóc khắp đất nước hót rất buồn. Các dấu hiệu kì lạ đã được chứng kiến bởi các đệ tử và các vị vua khi lửa thiêu cháy giàn hỏa thiêu, và mọi người ở đó đều trải qua sự an bình hỷ lạc. Đạt được sự giác ngộ hoàn hảo nhờ lực gia trì của Manjunatha, ngài được thế giới biết đến là Phật Vimalashri.”

truyenthuaSakya-06

Năm 1244, Godan Khan, cháu trai của Chingis Khan, bị cuốn hút bởi sự nổi tiếng của Sakya Pandita, đã mời ngài đến Mông Cổ để trao truyền giáo lý Phật Đà. Sau đó, năm 1253, sau khi cả Sakya Pandita và Godan Khan đều mất, hoàng đế, Sechen Kublai Khan mời Drogon Chogyal Pagpa, cháu trai của Sakya Pandita đến cung điện. Pagpa đã tạo ra kiểu chữ viết mới cho ngôn ngữ Mông Cổ. Kublai Khan ấn tượng với ngài Pagpa đến mức đã tuyên bố Phật giáo là quốc giáo của Mông Cổ và trao cho ngài [Pagpa] quyền cai trị ba tỉnh Tây Tạng. Như thế, Pagpa là người đầu tiên trong lịch sử Tây Tạng đã có được quyền lực tôn giáo và thế tục trong suốt thế kỷ. Cũng vào lúc này, chùa lớn Lhakhang Chenmo được xây dựng ở Sakya. Cho đến ngày nay nó vẫn đứng vững là là thư viện tôn giáo vĩ đại nhất của Tây Tạng với các bức tượng và các đồ tôn giáo rất cổ. Pagpa được kế nhiệm bởi em trai Chagna và các vị Sakyapa đã cai trị Tây Tạng trong hơn một trăm năm.

truyenthuaSakya-07

Cuối cùng, Tishri Kunglo (1299 – 1327), cháu trai lớn nhất trong 15 cháu trai của em trai ngài Sakya Pandita, đã thành lập bốn cung điện của triều đại (Podrang): Zhithog, Rinchen Gang, Lhakhang và Ducho, duy chỉ còn tồn tại cung điện cuối cùng. Vào thế kỷ 18, thời đại của Sakya Trizin Wangdu Nyingpo, đức Liên Hoa Sinh thứ hai của thời đại này, cung điện Ducho bị chia đôi – Drolma Podrang và Phuntsok Podrang. Các vị lãnh đạo của hai cung điện này là ngài Kyabgon Sakya Trizin Ngawang Kunga (sinh năm 1945) của cung điện Drolma, vị lãnh đạo hiện tại của truyền thống Sakya, bậc nắm giữ Pháp tòa Sakya thứ 41 và đang sống ở Dehra Dun, Ấn Độ. Ngài có hai con trai, Ratna Vajra và Gyana Vajra. Ngài cũng có một chị gái, Jetsunma Chimey Luding, người đã giảng dạy rộng khắp trên thế giới. Gongma Dagchen Rinpoche (sinh năm 1929) của cung điện Phuntsok thành lập Sakya Thegchen Choling ở Seattle, Wash, Mỹ. Ngài có một em trai, Gongma Thinley Rinpoche, một vị tăng mới mất gần đây. Dagchen Rinpoche có năm người con trai. Người con trai thứ hai, Ananda Vajra Rinpoche, một luật sư giỏi, đã giúp đỡ đức Đạt Lai Lạt Ma và chính phủ lưu vong Tây Tạng trong các vấn đề pháp luật và hiến pháp. Sự tiếp nối vị trí Sakya Trizin, trưởng dòng Sakya, là cha truyền con nối từ thời của Khon Konchog Gyalpo và gần đây, luân phiên giữa hai cung điện.

truyenthuaSakya-08Trong số các vị nắm giữ truyền thống Sakya, Sachen Kunga Nyingpo, Sonam Tsemo, Dragpa Gyaltsen, Sakya Pandita Kunga Gyaltsen và Drogon Chogyal Pagpa nổi tiếng là Năm Đấng Cao Cấp của truyền thống Sakya, hay Jetsun Gongma Nga. Ba vị đầu tiên được biết đến là “Ba vị Trắng” và hại vị còn lại là “Hai vị Đỏ”. Sau đó, có Sáu Trang Sức của Tây Tạng: Yagton Sanggye Pal và Rongtol Mawe Senge, những người nổi tiếng vì kiến thức về kinh điển; Ngorchen Kunga Zangpo và Dzongpa Kunga Namgyal – uyên thâm mật điển; Gorampa Sonam Sengge và Shakya Chogden – uyên thâm cả kinh điển và mật điển. Đây là các vị đạo sư quan trọng nhất của truyền thống Sakya. Trong số các ngài, Goram Sonam Sengge thiết lập sự nghiên cứu chính thức về logic.

Giống như các truyền thống khác của Phật giáo Tây Tạng, có rất nhiều các nhanh truyền thừa xuất hiện. Các dòng truyền thừa nắm giữ giáo lý của Sakya Pandita Kunga Gyaltsen là Sakya, Ngor và Tsar. Ngorchen Kunga Zangpo (1382 – 1457) và các vị đạo sư kế nhiệm như Konchok Lhundrup, Thartse Namkha Chime Palzang và Drubkhang Palden Dhondup thành lập dòng truyền thừa Ngor. Tsarchen Losal Gyatso (1502 – 56), theo sau là Jamyang Khyentse Wangchuk và Mangto Ludrup Gyatso thành lập dòng truyền thừa Tsar. Ba dòng truyền thừa khác có nguồn gốc từ Sakya là Bulug/Shalu thành lập bởi đức Buton Rinchen Drub, Jonang bởi đức Dolpopa Sherab Gyalten và kế nhiệm là ngài Jonang Taranata và Bodong bởi đức Bodong Panchen Chogle Namgyal. Dzongpa của đức Dzongpa Kunga Namgyal thường được xem là một truyền thừa riêng biệt. “Nhưng trong truyền thống Sakya, chỉ có một vài điểm khác biệt rất nhỏ trong việc giải thích và học thuyết về Kinh và Mật” – Dzongsar Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Về tri kiến, ở Tây Tạng, có ba sự diễn giải Trung quán tông khởi lên; trung quán tông đoạn kiến, trung quán tông bất diệt và trung quán tông Trung Đạo. Dòng Sakya theo con đường Trung Đạo, được dạy bởi đức Sakya Pandita và giải thích bởi Gorampa Sonam Senggye và nhiều đạo sư khác.

truyenthuaSakya-09

Trong truyền thống Sakya, trong số hàng trăm giáo lý Phật Đà từ Ấn Độ ăn sâu vào đời sống tâm linh Tây Tạng nhờ những nỗ lực của Năm vị đạo sư sáng lập, nổi tiếng nhất là sự trao truyền Hevaja khởi nguồn từ đức Virupa, Vajrakila của đức Liên Hoa Sinh, Vajrayogini của đức Naropa, Mahakala của Vararuchi và Guhyasamaja của ngài Long Thọ. Năm vị đại thành tựu giả xứ Ấn Độ này được coi là nổi tiếng nhất trong truyền thống Sakya. Bên cạnh những dòng truyền thừa xuất sắc này, còn có nhóm Bốn Mật điển: Hevajra, Chakrasamvara, Guhyasamaja và Vajrabhairava. Một bộ quan trọng khác là Mười ba Pháp Hoàng Kim bao gồm Ba pháp Đỏ, Ba pháp Đỏ vĩ đại, Ba pháp đỏ nhỏ hơn, Văn thù đen, Quan Âm Simhanada, Sabala Garuda và Zambala đỏ. Có rất nhiều các bản khác nhau liệt kê mười ba pháp, tuy nhiên bộ ba Ba Pháp đỏ vẫn không thay đổi. Đây là các thực hành Vô thượng Du già của truyền thống Sakya, còn hàng trăm các truyền thừa giáo lý khác như là Hayagriva, Kalachakra, Mahamaya, Văn Thù, Kim Cương Thủ, Tara và tương tự thế.

truyenthuaSakya-10

Trong các học viện tu sĩ của Sakya, mười tám bản văn chính được nghiên cứu tỉ mỉ. Hiện tại, chỉ có một vài học viện, một học viện chính ở Rajpu Ấn Độ, và một ở Boudhanath, Kathmandu, Nepal. Một vài vẫn được mở ở Tây Tạng như Dzongsar Khamje Ling. Mười tám bản văn giảng dạy về Trí tuệ Ba la mật, Giới luật (vinaya), Tri kiến Trung Đạo, Hiện tượng, Logic và Nhận thức Luận. Các bản luận giải độc đáo của truyền thống gồm có Sự phân biệt Ba giới nguyện, và Kho tàng Logic các Tri thức Giá trị của đức Sakya Pandita. Các tác phẩm của đức Gorampa Sonam Sengge cũng đặc biệt quan trọng. Khi tốt nghiệp, một vị tăng được trao các bằng Kazhupa, Kavhupa và Rabjampa trên cơ sở của công đức.

truyenthuaSakya-11Các tu viện chính của dòng Sakya ở miền trung Tây Tạng là Lhakhang Chenmo được thành lập bởi đức Khon Konchog Gyalpo (tu viện chính của dòng Sakya), Ngor Ewam Choden thành lập bởi đức Ewam Kunga Zangpo (tu viện chính của dòng Ngorpa), Dar Drangmoche ở Tsang thành lập bởi Tsarchen Losal Gyatso (tu viện chính của dòng Tsarpa), Nalanda ở Phenpo xây dựng bởi đức Rongton Sheja Kunrig và Tsedong Sisum Namgyal bởi đức Namkha Tashi Gyaltse. Ở tỉnh Kam, Dhondup Ling được thành lập bởi đức Dagchen Sherab Gyaltsen, Lhundrup Teng của Dege thành lập bởi đức Tangtong Gyalpo, cũng như tu viện Dzongsar của đức Jamyang Khyentse Wangpo và Chokyi Lodro; và Deur Chode bởi đức Chodak Sangpo ở tỉnh Amdo. Tất thảy, có hàng nghìn tu viện của truyền thống Sakya từ Trung Quốc, Mông Cổ đến miền tây Tây Tạng, Kashmir, Nepal và Ấn Độ.

Hiện tại, Tsechen Tenpai Gatsal ở Rajpur, U.P và Sa Magon ở Puruwalla là hai tu viện chính của Sakya. Ngor Ewam Choden ở Maduwalla, Dehra Dun là tu viện chính của Ngorpa. Tashi Rabten Long ở Lumbini, cùng với hai tu viện khác ở Kathmandu, Nepal đại diện cho dòng Tsarpa. Bây giờ, đức Sakya Trizin Ngawang Kunga là vị trưởng dòng Sakya và đứng thứ hai ở Tây Tạng sau đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài Luding Khen Rinpoche là trưởng dòng Ngor và ngài Chogye Trichen Rinpoche là trưởng dòng Tsar.

Nguồn: http://www.szakja.hu/english/sakyatradition.html

Việt dịch: Hạnh Phúc – Nhóm Thuận Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2016(Xem: 8142)
Tôi tới một miền quê, kề bên một trận địa vào một buổi chiều hoe nắng. Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông dân cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái im lìm ! Qua một đêm, ngủ đỗ, sáng hôm sau trở dậy lên đường. Trong ánh nắng sớm mai, đố ai biết có gì đổi khác. Nhìn vào thôn xóm vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Nhưng giải đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ tới bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lụt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên giải đồng rộng mênh mông. Trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên các đô thành làng mạc, trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây, nguời dân ViệtNam thản nhiên gieo nguồn sống. Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trổi dậy, tượng trưng cho sức sống mảnh liệt cho cả một dân tộc. (tác giả Thích Nhất Hạnh)
19/05/2016(Xem: 27116)
Bắt đầu từ ngày 06 tháng 4 năm 2016, cá biển tự nhiên và cá nuôi lồng bè của ngư dân ven biển chết hàng loạt, bắt nguồn từ khu kinh tế Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh), lan xuống các tỉnh lân cận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng…) suốt dọc trên 200 cây số bờ biển. Ngay cả rạn san hô, “nhà ở” của các sinh vật dưới biển, cách bờ biển từ 1-6 hải lý, chạy dài từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh Quảng Bình, cũng đã bị phá hủy trong các đợt cá chết vừa qua; san hô chết, nhiều sinh vật biển chết theo (theo báo cáo ngày 06.5.2016 của chính quyền địa phương thôn Nhân Nam, xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
09/04/2016(Xem: 15408)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
19/01/2016(Xem: 5682)
Năm nay, 2016, đánh dấu 50 năm Phật Giáo Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ, tính từ năm 1966, khi mà Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đến Mỹ dạy tại Đại Học UCLA và ở lại luôn để truyền bá Phật Giáo Việt Nam tại đây. Vì vậy, Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân là vị sơ tổ của Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ. Nhưng trước hết xin nhìn thoáng qua một chút về bối cảnh Phật Giáo Mỹ.
06/01/2016(Xem: 16471)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
06/07/2015(Xem: 11615)
(Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)” (China: Maritime Claims In The South China Sea) được Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Vùng Cực (Office of Ocean and Polar Affairs), Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế (Bureau of Ocean and International Environmental and Scientific Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (US Department of State) công bố ngày 5 tháng 12 năm 2014 – (Nguồn: http://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf ). Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét tuyên bố về biển và/hay các biên giới của Bộ Ngoại Giao và đánh giá sự phù hợp với luật quốc tế. Nghiên cứu này đại diện quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ đối với những vấn đề đặc biệt được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh sự chấp thuận những giới hạn được tuyên bố. Các phân tích gia chính cho nghiên cứu này là Kevin Baumert
27/04/2015(Xem: 8760)
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi" (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: "Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
19/04/2015(Xem: 12574)
Từ Đàm là ngôi chùa cổ mà không cổ. Chùa cổ, nếu tính theo năm sinh, khoảng 1690. Khi chùa khai sinh, Trịnh Nguyễn hãy còn phân tranh, mỗi mái chùa dựng lên ở phương Nam là mỗi bước chân mở đường Nam tiến sống chết của dân tộc.
19/04/2015(Xem: 3564)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại học ở Trung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” (năm 1912 chính phủ Dân Quốc thành lập đổi tên thành Đại Học Bắc Kinh) năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên. Trước năm 1920, Đại học ở Trung Quốc đều là dân lập như Đại học Đông Ngô, Đại học Tế Lỗ, Đại học Saint Jonhs. Theo tư liệu thống kê vào lúc đó trên 80% sinh viên đều theo học tại các trường Đại học do giáo hội Cơ Đốc giáo (đạo Chúa và đạo Tin Lành) thành lập.
29/01/2015(Xem: 6116)
Theo thời gian lịch sử và không gian vật lý, thì đệ tử Như Lai đều cho rằng núi Thiếu và khe Tào (Tào khê) là địa danh gắn liền với hành trạng Tổ Đạt Ma và Huệ Năng. Bởi đó là Đạo trường hành đạo giáo hóa của các Tổ sư. Đạo trường với quy ước vật lý này đánh dấu những nỗ lực bình sinh sau cùng để các Chân nhân Tổ sư “ung dung xô cửa huyền vi bước vào Đạo”. Để rồi cánh cửa ấy khai phóng nguồn năng lượng siêu nhiên tuôn chảy miên tục, “chắp cánh cho Đạo mầu bay vào cát bụi của kiếp người”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567