Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

A Dục Vương, một cư sĩ Phật tử hộ trì chánh pháp vĩ đại

22/09/201010:28(Xem: 15038)
A Dục Vương, một cư sĩ Phật tử hộ trì chánh pháp vĩ đại

ASOKA hay A DỤC VƯƠNG (273-233 trước Tây Lịch) là một vị vua, nhân vật lịch sử vĩ đại không những đối với lịch sử Ấn Ðộ mà cả lịch sử thế giới. Ngài còn là một cư sĩ Phật tử “Hộ Pháp” có công đức nhiều với nhân loại trong việc phát huy, bảo vệ chánh pháp của đức Phật.

A Dục Ðại Ðế là cháu nội vua Chandragupta (trị vì: 322-298 trước T.L), người sáng lập nên triều đại Maurya (322-184 trước T.L) ở Ấn Ðộ. A Dục là con vua Bindusara và hoàng hậu Subhadrangi, trị vì vương quốc Magadha (Ma Kiệt Ðà) vào những năm 298-273 trước T.L), với kinh đô đóng tại Pataliputra (Hoa Thị Thành), nay là thủ phủ Patna, thuộc tiểu bang Bihar, miền đông Ấn Ðộ. Sử chép rằng Vua Bindusara lấy đến 16 vợ và có 101 người con, trong đó Sumana là con đầu, Asoka (A Dục) thứ hai và Tishya là con út. Vua A Dục lên ngôi lúc ngài 30 tuổi và mất vào năm 71 tuổi (273-233 trước T.L). Nhà vua có năm vợ và sáu con: bốn trai, hai gái.

Sử chép rằng sau khi nghe tin vua cha băng hà, A Dục bấy giờ đang cai trị tiểu quốc Avanti (miền bắc Ấn Ðộ), cấp tốc kéo quân về vây hảm kinh đô Pataliputra, giết hết 99 người anh của mình, trong đó có thái tử Sumana là người mà vua cha Bindusara định truyền ngôi cho. Từ đó, A Dục Vương nổi danh như một hung thần bạo chúa, cai trị muôn dân bằng sắt máu. Ông dùng vũ lực xua quân đi xâm lăng các tiểu quốc lân bang để mở mang bờ cõi. Quân nhà vua đi tới đâu, cảnh lương dân bị chém giết, đẩy ải, nhà cửa bị đốt phá xảy ra đến đó. Khắp nơi dân tình khốn khổ vì nạn nghèo đói, bệnh tật, tù đầy, gây nên bởi những cuộc viễn chinh tàn bạo của A DụcVương. Do đó, nhà vua được người đời bấy giờ tặng cho cái tên Candasoka (A Dục Vương hung ác).

Rồi một hôm, đang ngồi một mình trên lầu trong cung điện, vua A Dục chợt nhìn qua khung cửa sổ, bắt gặp hình dáng một chú tiểu Sa Di tên Nigrodha trong chiếc áo cà sa vàng, với dáng điệu khoan thai đang đi khất thực dưới đường. Nhà vua bèn cho mời chú tiểu vào để thăm hỏi và vấn đạo. Sa Di Nigrodha sau đó đã thuyết giảng cho A Dục Vương nghe một đoạn kinh Pháp cú (Dhammapada) như sau: “Không phóng dật đưa tới bất tử; Phóng dật đưa tới đường tử sanh. Người không phóng dật thì không chết; Kẻ phóng dật thì sống như thây ma”. Nghe xong nhà vua liền thức tỉnh, phát tâm hồi đầu theo Phật. Từ đó, A Dục Vương bắt đầu thay đổi cuộc sống và quan niệm nhân sinh của mình. Nhà vua nghĩ đến sự chiến thắng, chinh phục nhân tâm bằng chánh pháp của đức Phật chứ không phải bằng những cuộc chiến tranh tàn bạo. Mặc dù vua A Dục đã theo Phật Giáo sau những ngày gặp Sa Di Nigrodha, nhà vua vẫn chưa diệt hẳn tham vọng bành trướng đất đai mãi đến sau trận chiến Kalinga (nay thuộc tiểu bang Orissa, miền đông Ấn Ðộ), với 100.000 người chết, và 150.000 người bị đày ải, vua A Dục mới thực sự ăn năn sám hối tội ác, gây nên bao thống khổ điêu linh cho muôn dân và từ bỏ hẳn con đường chinh phục thiên hạ bằng chiến tranh.

Từ ngày đó, vua A Dục nhất tâm quy y, phụng trì Tam Bảo, ngày đêm sám hối những tội lỗi mình đã gây ra và phát nguyện đem hết năng lực còn lại của đời mình để phụng sự Phật Giáo và nhân loại. Về xã hội, nhằm gây hạnh phúc cho nhân dân, nhà vua ra lệnh sửa sang đường sá, cầu cống; dọc đường trồng cây có bóng mát, xây dựng quán nghỉ ngơi, giếng nước, trạm phát thuốc cho người bệnh, người già, kẻ lỡ đường v..v….Về y tế, nhà vua cho thiết lập khắp nơi trong nước nhiều bệnh viện, không những để chăm sóc, chữa bệnh cho con người, mà cả đến loài vật.

Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dung và tôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ, truyền bá chánh pháp của đức Phật, không những trong nước Ấn Ðộ và các quốc gia khác ở Á Châu, mà lan rộng cả đến Âu và Phi Châu. Vua A Dục muốn biến cải Phật Giáo bấy giờ thành tôn giáo chung của toàn thế giới.

Nhà vua đích thân đi chiêm bái các Thánh Tích Phật Giáo như vườn Lâm Tì Ni (Lumbini), nơi đức Phật đản sinh hơn 2.500 năm trước; Bồ Ðề Ðạo Tràng (Bodh Gaya), nơi đức Phật tọa thiền chứng đạo dưới cội Bồ Ðề, vườn Lộc Uyển (Sarnath), nơi đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên “Tứ Diệu Ðế” v..v….và tới đâu ngài cũng ra lệnh cho dựng các trụ đá để ghi dấu tích và kỷ niệm. Chính nhờ những trụ đá này mà về sau các sử gia nghiên cứu mới biết rõ được những di tích lịch sử liên quan đến đời sống và hoạt động của đức Phật thời xưa ở Ấn Ðộ.

Nhà vua cho xây cất rất nhiều chùa tháp, tu viện Phật Giáo trong nước, và giúp đỡ chư Tăng trong nhiệm vụ đưa giáo lý an lạc của đức Phật vào cuộc đời. Vua A Dục cũng khuyến khích cho hai người con của mình là hoàng tử Mahinda (Ma Hưng Đạt) và công chúa Sanghamitta xuất gia đi tu. Ðại đức Mahinda, người có công lớn trong việc mang Phật Giáo từ Ấn Ðộ sang truyền bá tại Tích Lan vào năm 247 trước Tây Lịch. Còn Ni Cô Sanghamitta, không lâu sau đó, theo lời khuyên của đại đức Mahinda, cũng vượt biển bằng thuyền qua Tích Lan để góp sức với anh mình trong việc phát huy truyền bá Phật Pháp tại đây.

Cùng đi với Sanghamitta, còn có 11 Ni Cô khác nữa. Sử chép rằng trong chuyến đi lịch sử này, sư cô Sanghamitta có mang theo một nhánh Bồ Ðề con chiết lấy từ cây Bồ Ðề chính ở Bồ Ðề Ðạo Tràng (Bodh Gaya), nơi đức Phật Thành Ðạo xưa kia, đem trồng ở Anuradhapura, cựu kinh đô của Tích Lan (Sri Lanka). Cây Bồ Ðề hiện nay vẫn còn sống và theo học giả Phật tử người Anh, ông Christmas Humphreys, đây là cây Bồ Ðề lịch sử cổ nhất thế giới.

Nhưng sự đóng góp vĩ đại nhất của vua A Dục cho nhân loại là những pháp lệnh ngài chỉ thị cho khắc trên đá hoặc trụ đá dựng lên khắp toàn xứ Ấn Ðộ bấy giờ mà qua đó, giáo lý đức Phật được truyền thừa và lưu lại muôn đời cho các hậu thế chúng ta. Chẳng hạn pháp lệnh thứ VI khắc trên trụ đá ở thị trấn Banaras -Ba La Nại (thuộc tiểu bang Uttar Pradesh, miền đông bắc Ấn Ðộ) vào niên đại A Dục thứ 26, nói về cai trị theo chánh pháp: “Ðiều ta muốn nói là ta luôn nghĩ đến quyền lợi và hạnh phúc của thế giới. Ðối với cha mẹ, bà con quyến thuộc xa gần, ta muốn mang lại hạnh phúc cho họ”, và pháp lệnh thứ IV khắc trên núi đá vùng Girnar (thuộc tiểu bang Gujarat, miền tây Ấn Ðộ) ghi:“Nhờ sự thực hành chánh pháp của quốc vương, bạn của những thần linh, với cái nhìn bằng hữu, tiếng trống trận đã trở thành tiếng báo hiệu cho chánh pháp”, hoặc pháp lệnh thứ II khắc trên trụ đá ở thành Ba La Nại (Banaras) ghi: “…….Ta thành tâm sám hối về mọi lỗi lầm đã qua, và nhận thấy rằng chiến tranh xâm lăng lúc nào cũng gây nên chết chóc và tội ác. Dù số người đã bị giết, bị thương, bị bắt có trăm lần ít hơn số người bị tàn sát trong trận chiến Kalinga đi nữa, thì cũng là điều khiến cho ta ân hận lắm. Dù các tiểu quốc có phạm lỗi lầm gì thì bây giờ ta cũng phải nhẫn nhục đến cùng. Vì ta muốn tất cả mọi người đều có sự an lạc, yên tĩnh trong tâm hồn, và thương yêu với đồng loại”…

Trong khuôn khổ một bài báo, chúng tôi rất tiếc không thể trình bày hết những đóng góp lớn lao của vua A Dục cho con người trên nhiều lãnh vực: chính trị, văn hóa, tôn giáo và xã hội v..v…..Dù nhà vua đã mất gần 2.238 năm về trước, nhưng gương sáng của ngài sử sách cổ kim vẫn còn truyền tụng và tên của A Dục Vương vẫn được ghi nhớ mãi trong lòng mọi thế hệ nhân loại và nhất là trong hàng Phật tử hậu sinh chúng ta. Chính không phải do những chiến thắng bằng vũ lực tàn bạo của A Dục đại đế mà là nhờ bởi những việc làm phước thiện của nhà vua đã thực hiện cho muôn dân xã hội Ấn Ðộ bấy giờ, sau khi ngài biết ăn năn sám hối tội lỗi của mình đã gây ra và quay đầu về với chánh pháp của đức Phật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Asoka, The Buddhist Emperor of India, by Vincent A. Smith, Low Price Publications, Delhi ( India), 1930.

2. 2500 Years of Buddhism, Editor: Prof. P.V. Bapat, Publications Division, Government of India, Delhi, 1964.

3. Encyclopaedia of Buddhism, Vol. II, Edited by Dr. G.P. Malalasekera, Government of Ceylon ( Sri Lanka), Colombo, 1967.

4. Royal Patronage of Buddhism in Ancient India, by Kanai Lal Hazra, D.K.Publications, New Delhi ( India), 1984.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2014(Xem: 6090)
Roberto Baggio, 47 tuổi, gần đây đã mở một trung tâm Phật giáo ở ngoại ô thành phố Milan. Gần 1,000 người đã tập trung tại trung tâm Phật giáo lớn nhất châu Âu này. Baggio nói với các phóng viên, “ Điều quan trọng nhất của đời tôi là khi tôi tìm thấy Phật giáo. Ngày nay nhiều người đang cố gắng tìm hiểu triết lý này, vì vậy việc lập ra trung tâm này, trong một ý nghĩa nào đó, là khởi điểm của một dự án lớn.” Baggio được đám đông đón chào nồng nhiệt, và anh đã hướng dẫn một buổi thiền định tại đây. Thường được gọi với biệt danh (tóc) Đuôi ngựa Thần thánh, Baggio đã ghi bàn 27 lần trong 56 trận bóng đá cho đội tuyển Ý. Baggio cải đạo sang Phật giáo cách đây 27 năm và trở thành một trong những người Ý nổi tiếng nhất làm như vậy. Ghi bàn hơn 200 lần trong bóng đá Ý, Baggio được xem là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại ở đất nước này. (tipitaka.net – November 1, 2014)
07/11/2014(Xem: 27719)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
25/10/2014(Xem: 18022)
Trong bất cứ một cộng đồng nào đều có nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều chủng loại con người khác nhau sống cùng trong đó, thì chắc chắn luôn có sự hiện diện của nhiều mặt tư tưởng khác nhau, phát sinh nhiều vấn đề liên quan. Vì vậy để gìn giữ một cuộc sống yên bình cho một cộng đồng, con người phải có nhiều phương pháp để hòa giải mọi sự khác biệt. Xuyên suốt trong lịch sử của loài người, đã có rất nhiều lời đề xuất để giải quyết, thậm chí phải sử dụng đến phương sách bạo động, chẳng hạn như chiến tranh, xung đôt nhằm giải quyết sự khác biệt.
21/10/2014(Xem: 9850)
Hans Küng, sinh năm 1928 tại Sursee, Thụy Sĩ, là Giáo sư Thần học hồi hưu thuộc Đại học Tübingen, Đức. Ông đã sáng lập Hiệp hội Đạo đức Thế giới (Stiftung Weltethos) mà hiện nay ông đang là Chủ tịch Danh dự. Với nhiều công trình nghiên cứu khoa học về các tôn giáo và các đóng góp to lớn về nỗ lực liên tôn cho hoà bình thế giới, ông được nhiều giải thưởng cao qúy và được vinh danh là một nhà tư tưởng quan trọng nhất đương đại. "Auf den Spuren des Buddha" là một trích đoạn từ trong tập hồi ký: “Erlebte Menschlichkeit, Erinnerungen“, Piper, München, Zürich, 2. Aufl. 2013, 377-403.
18/10/2014(Xem: 42101)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
16/10/2014(Xem: 9695)
Chaman Lan và một số học giả Hoa Kỳ cho rằng không phải ông Columbus đầu tiên tìm ra Châu Mỹ mà chính những người di dân Hindu từ Ấn Độ. Lý luận mới lạ này được dựa vào một số truyền thống thịnh hành ở Trung Mỹ và Mexico. Nhưng giả thiết này thiếu sự ủng hộ của bằng chứng văn học. Tuy nhiên chúng ta cũng có ít nhất là một điểm được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa nói đến một đoàn tu sĩ Phật Giáo đến Châu Mỹ vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch và đã đưa Phật Giáo vào dạy cho những người dân ở đó.
17/08/2014(Xem: 18377)
Tín đồ Phật giáo tin rằng có một con người thật được tôn xưng là đức Phật, hay Đấng Giác Ngộ, đã nhận ra được trí huệ sáng suốt xa xưa, hay nói đúng hơn là từ vô thủy, của con người. Và ngài đã làm được điều này ở Bihar, Ấn Độ, vào khoảng từ năm 600 cho đến 400 trước Công nguyên – thời gian chính xác không được biết.
17/08/2014(Xem: 7666)
Vào thời đại Silla (Tân La) ở Hàn Quốc, khoảng hơn Nghìn năm trước, có một cậu bé tên là Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) sống ở làng Moryang. Vì hoàn cảnh gia đình gặp phải khó khăn về kinh tế, cho nên cậu phải rày đây mai đó làm thuê mướn để đổi lấy bát cơm manh áo và phụ giúp gia đình. Một hôm, sau khi dự buổi thính pháp đàm của một vị Pháp sư giảng giáo lý Phật đà, cậu liền về nhà thuyết phục mẹ mình cúng dường mảnh ruộng vườn, tài sản duy nhất của gia đình để tích phúc đức.
26/05/2014(Xem: 9968)
New Delhi, India – Nhà truyền bá Phật giáo Toàn cầu đầu tiên của thế giới Anagarika Dharmapala và người đàn ông được nói đều nhiều nhất ở Ấn độ ngày nay, và có lẽ những người có quyền thành lập chính sách và đưa ra quyết định, Thủ tướng Ấn độ, ông Narendra Modi, đều có một số điểm chung. Cả hai đều sinh ngày 17 tháng 09 mặc dầu cách nhau 86 năm. Anagarika Dharmapala sinh ngày 17 tháng 09 năm 1864 và Narendra Modi chào đời ngày 17 tháng 09 năm 1950.
28/04/2014(Xem: 10598)
Chào mừng Đại lễ Phật Đản Vesak LHQ 2014 tổ chức tại Việt Nam, được sự hỗ trợ của Ban thư ký Đại lễ Vesak, một ê kíp gồm nhiều đạo diễn, quay phim kỳ cựu của Truyền hình An Viên (AVG) đã thực hiện bộ phim tài liệu 10 tập có nhan đề "Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567