Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm Học Về Ngày Đản Sinh

27/05/201309:09(Xem: 5506)
Tìm Học Về Ngày Đản Sinh
phatdan-title

TÌM HỌC VỀ NGÀY ĐẢN SINH
Nguyễn Phúc Bửu Tập

phatdansinh7hoasenBài này tìm học rõ ngày sinh của đức Phật. Trên thế giới ngày nay có năm tôn giáo lớn: đạo Cơ Đốc, đạo Hồi, đạo Ấn Độ, đạo Do Thái và đạo Phật. Hai tôn giáo có tính cách cục bộ là đạo Ấn Độ (Hinduism) và đạo Do Thái (Judaism). Đạo Ấn Độ vào đầu thiên niên kỷ Ba đếm 700 triệu tín đồ, tức là 13% dân số thế giới. Đạo Do Thái rất ít tín đồ, 18 triệu người trên dân số thế giới gần 7 tỉ, thế nhưng ảnh hưởng bao la trên lịch sử, chính trị và kinh tế thế giới. Còn lại ba đức tin nhiều tính cách phổ biến là đạo Cơ Đốc, đạo Hồi và đạo Phật. Hồi giáo (Islamism) dạy rằng thượng đế Allah là tất cả, uy quyền vô biên, thế nhân không thể tìm hiểu ngày sinh của ngài. Đạo Cơ Đốc (Christianism) phát xuất từ người da trắng phương Tây, ngày nay sa sút, đang tìm cách chinh phục, dụ dỗ dân nghèo lam lũ ở châu Á và châu Phi. Đạo dạy là thượng đế (chúa Cha) cho người con của ngài là chúa Jesus xuống trần gian cứu vớt thế nhân. Jesus thay mặt thượng đế, tin ngài là tin đạo, người không tin là ngoại đạo, không biết tôn giáo là gì. Thượng đế cho Jesus xuống trần ngày Noël, thay mặt ngài vì vậy ngày sinh nhật của Jesus là ngày Giáng sinh(降 生).

Đạo Phật dạy chúng ta không tin vào ý niệm thượng đế và thần thánh. Thích ca là một con người như chúng ta, có sống có chết, nhưng khác với chúng ta là Ngài đã bỏ qua tất cả đi tìm nghĩa lý của sự sống, và Ngài đã tìm được, đã giác ngộ. Ngài cũng đã được cha mẹ sinh ra, vì vậy ngày sinh của Ngài là ngày đản sinh(誕 生). Ngày nay ta đồng nhất và gọi đúng từ ngữ ngày sinh đức Phật là ngày Phật Đản.

Chúng ta có thể tóm lược chủ đề Phật Đản làm hai phần:

Phần thứ nhất, lễ đản sanh truyền thống, và phần thứ hai lễ đản sanh như ta quan niệm ngày hôm nay. Quy cách truyền thống trình bày lễ đản sinh qua hai bộ kinh quan trọng:

Bộ kinh thứ nhất thuộc Phật giáo Nam Tông, Jataka Kinh Bổn Sinhlà phần lớn nhất của Tiểu Bộ Kinh (Khuddada nikaya), gồm 547 bài, kể lại sự tích, tiền kiếp của đức Phật, giảng rõ nghiệp (karina) đời trước đóng vai trò gì trong kiếp này, áp dụng vào thân kiếp đức Phật.

Bộ kinh thứ hai thuộc hệ phái Bắc Tông, Buddhacarita Phật Sở Hạnh Tán, là một tác phẩm văn vần của Mã Minh (Asvaghosa), nói rõ vào toàn bộ cuộc đời Thích Ca, gồm 28 bài thơ (ngày nay còn lại 13 bài, chữ Phạn Sanskrit và một số bản dịch qua tiếng Tây Tạng). Kinh này rất được ưa chuộng trong dân gian ngày xưa, vì lối thơ tả cuộc đời của đức Phật rất bình dị, nhẹ nhàng và hấp dẫn.

Trong hai bộ kinh vừa kể, một thuộc Nam Tông Theravada, hai thuộc Bắc tông Mahagana, sự tích đản sinh cũng được trình bày làm hai phần: mẹ đức Phật thụ thai, và hoàng hậu sinh đức Phật ra sao.

Ta có thể tóm lược phần thụ thai như sau:

"Bốn vị hộ pháp hiện ra và nhấc bổng tấm niệm hoàng hậu Maya đang nằm, bay đến chân núi Hi Mã Lạp Sơn (hay phiên âm hỉ-mã-lạp-sơn của từ Himalaya). Lập tức bốn bà vợ của bốn vị hộ pháp đến tiếp tay, nâng hoàng hậu đến hồ Anattada, tắm gội cho ngài sạch sẽ tất cả bụi trần. Nơi tắm ở gần đền Bạc, trong đền có một tòa nhà kết vàng. Người hầu trải một tấm nệm đầu hướng về phía Đông, và hoàng hậu được mời nằm trên nệm. Vào lúc này đức Phật hoá thân thành một con voi trắng vô cùng xinh đẹp. Voi bước lên đền Bạc, đi vòng quanh tấm nệm hoàng hậu đang nằm ba lần, lấy vòi chạm vào người hoàng hậu về phía hữu và đi thẳng vào tử cung của mẹ. Đó là sự kiện hoàng hậu Maya thụ thai. Khi tỉnh giấc, hoàng hậu tâu lên đức vua giấc mộng. Các vị sư sãi đồng tấu:

"Xin Hoàng Thượng an tâm, Hoàng Hậu sẽ sẽ sinh được một hoàng tử. Và nếu sau này hoàng tử tiếp tục sống trong cung điện, người sẽ trở thành một đấng minh quân. Nhưng nếu hoàng tử từ giã cung điện Ngài sẽ trở thành một vị Phật, giải tỏa mọi điều u muội và tội lỗi cho tất cả chúng sinh trong cõi đời. Vua Tịnh Phạn vui mừng, và 32 phép thần diệu xẩy ra. Thế giới 10 phương rung động, nấc lên và rung rẩy từng cơn. Lửa bừng cháy trên mọi ngọn đồi, trong khoảnh khắc mọi người ốm đau đều tìm lại đuợc an bình, mọi cây đàn không gảy mà rung rinh tiếng nhạc, nước trong bốn bể trở nên dịu ngọt và toàn thế giới ta bà được kết dãi bằng chùm hoa đẹp.

Tại vườn Lâm Tì Ni, giữa rừng cây bồ hòn hoàng hậu hạ sinh thái tử. Khi hoàng hậu chuyển bụng, ngài đau vói tay tìm một cành cao để đứng cho vững thì cành cây tự nhiên khum xuống cho ngài vịn. Hoàng hậu tay vịn nhánh cây cao, ở thế đứng hạ sanh thái tử. Đức Phật từ dạ con của mẹ ra đời như một vị thầy từ ghế giảng bước xuống, duỗi hai tay, duỗi hai chân xuống sàn đất, bước bảy bước về hướng Bắc, đầu đội chiếc vòng trắng, mắt nhìn bốn phương, xướng giọng như ngọc: "Ta là chúa tể mười phương, ngự trị muôn loài, và đây là lần tái sinh cuối cùng của ta."

Tiếp theo, kinh tả mọi điều mầu nhiệm lúc đức Phật lớn lên trong cung điện, ngài sống bên những thiếu nữ xinh đẹp chiêm ngưỡng ngài khi ngài dạo chơi. Kinh tả lại tỉ mỉ mọi điều xẩy ra trong thời thơ ấu của đức Phật.

Dĩ nhiên người chép kinh không bao giờ xem các biến cố vừa kể có tính cách huyền bí và truyền thuyết.

***

Bây giờ ta tìm đọc một bản tiểu sử mới, nói về ngày sanh của đức Phật, cũng đến từ miếu đường, do chính phủ nước cộng hoà Tích Lan/Sri Lanka, quốc gia thờ đạo Phật làm quốc giáo, bổn Phật Đản đã được chính thức phổ biến tại học đường và tại các nơi thờ phụng. (Manual of Buddhism, published by the Government of Sri Lanka, Colombo, 1990)

"Vào ngày trăng tròn tháng Năm, 623 năm trước Tây lịch (quốc gia Tích Lan cũng dùng Tây lịch, chú thích của người viết), tại quận Nepal, sinh ra đời một vị hoàng tử họ Ҫakya (Thích) tên là Gotama (Cổ Đàm). Vua cha là Suddhodana (Tịnh Phạn), mẹ là hoàng hậu Maya Maya (Ma Dza). Sinh con được vài ngày hoàng hậu qua đời và đứa bé được người em của hoàng hậu Maha Pajapati (Ma Kha Ba Xa Đề) chăm sóc nuôi dưỡng. Đến tuổi mười sáu, thái tử kết hôn với một người em họ xinh đẹp là công chúa Yasodhara (Dza Thâu Đà La). Đời sống tiếp tục trong mười ba năm hôn lễ, gia đình thái tử sống trong nhung lụa, thái tử hoàn toàn không biết tới những điều bất hạnh ngoài cung điện. Nhưng qua thời gian, thái tử dần dần hiểu những khổ đau của đời sống con người. Năm 29 tuổi, thái tử làm cha, công chúa sinh được con trai Rahula (La Hầu La). Thái tử xem con người là một bước cản trên đường tìm chân lý, vì Ngài thấu hiểu mọi chúng sanh đều phải sống trong vòng sinh lão bệnh tử. Thái tử quyết tâm tìm một lối thoát cho nỗi khổ đau không phải cho riêng mình và của mọi chúng sinh. Vì vậy Ngài rời bỏ đời sống vương giả, một đêm Ngài xuống tóc đi tu, quyết tìm chân lý của sự sống."

Như vậy ta đã lướt qua hai hình thức trình bày Phật Đản. Hình thức thứ nhất của người xưa, đầy thần bí huyển hoặc, do trí tưởng tượng của người tin Phật hư cấu. Đức Phật được xem như là một nhân vật siêu phàm, có nhiều kỳ vĩ, thời gian và không gian un đúc nên ngày sanh và các giai đoạn của cuộc đời đức Phật phần lớn không có cơ sở thực tế. Cách mô tả Phật Đản như thế này bây giờ không còn ai tin, mà nếu xung quanh ta còn có người tin thì người dân bình thường xứ ta gọi những người tin đó, một cách nôm na, và xin lỗi, có vẻ quê mùa là những người tin Phật "bà già trầu." (!)

Đúng thế chăng? Trên thực tế, nếu không có những người tin vào huyền thoại, liệu trong hai mươi sáu thế kỷ đã trôi qua, bị bao nhiêu thế lực bên ngoài dầy xéo, đạo của Thích Ca có còn tồn tại đến bây giờ chăng? Từ thế kỷ thứ Tám Tây lịch, Phật giáo bị quân Hồi giáo xua đuổi khỏi đất Ấn Độ là nơi chôn nhau cắt rốn của đạo Thích Ca ("Giết quân tà đạo, chôn lũ trọc đầu"), đạo Phạt phải tìm con đường sống lên phương Bắc với người Trung Đông và người Trung Hoa, phát triển mạnh trong các dân tộc Trung Hoa và các dân tộc ảnh hưởng văn minh Trung Hoa (Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam...). Đi về hướng Đông, đạo Phật hòa đồng với các dân tộc Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, quần đảo Nam Dương và dưới triều Đại Đường bên Tàu, đạo Phật đã chinh phục một nửa người sống trên trái đất. Rồi đến thế kỷ Mười Sáu, Mười Bảy Tây lịch, một cuộc tàn phá đạo Phật khủng khiếp hơn do người da trắng và đạo Gia Tô. Giáo hoàng Alexander VI, rất hư đốn lại làm đại diện cho Thượng đế, ban hành huấn lệnh Patroado, chia thế giới ra làm hai (vị giáo hoàng lấy bút chì gạch một đường chia thế giới ra làm hai, và lúc đó chưa biết thế giới hình tròn!) một nửa cho Bồ Đào Nha và một nửa kia cho Tây Ban Nha để chinh phục linh hồn, thật ra là chinh phục đất làm thuộc địa. Trong phạm vị rất nhỏ và hết sức đau thương của đất nước Việt Nam ta, người Pháp không tuân hành huấn lệnh Patroado nhưng những tên thực dân đội lớp nhà tu như Pigneau de Béhaine, như Alexandre de Rhodes đã dẫn quân viễn chinh da trắng xâm chiếm đất nước ta, đặt ách thống trị Pháp lên đầu dân tộc ta hơn một trăm năm, để cho quân da trắng thả cửa đập phá chùa chiền.

Cũng là đức tin mà người ta đùa "đạo bà già trầu" nói ở trên đã xây dựng lên các công trình kiến trúc làm kiêu hãnh và vinh dự cho loài người như quần thể các ngôi chùa Borobudur, Mendut, Pawon (Borobudur Temple Compounds) tại Nam Dương, như đền Angkor Vat tại Cao Miên, Đông Đại Tự tại Nhật, cung điện Potala tại Tây Tạng, động Đôn Hoàng tại Trung Hoa và hàng trăm nghìn ngôi chùa, ngôi đền khác mà bàn tay nhỏ bé của con người đã xây dựng nên nơi thờ phượng đức Phật.

Hình thức thứ hai miêu tả Phật Đản, đượm màu lý trí, gần với chúng ta ngày nay hơn. Gạt sự tích thần thoại sang một bên, đạo Phật đã thấm vào tim óc của giới trẻ, đặc biệt là người trẻ trí thức trong thế giới Tây phương. Riêng tại Hoa Kỳ số trí thức người Mỹ trong thập niên 1980 được công bố là 7 triệu, và năm 2000 là 10 triệu. Gần 1 triệu người gốc Việt sống tại California đã phải nghĩ đến niềm vinh hạnh là vị Thống đốc hiện tại, ông Jerry Brown là một người theo đạo Phật. Kỷ niệm ngày Phật Đản, ta nhớ đến câu nói của Albert Einstein: "...Nếu có một tôn giáo nào đáp ứng được với các nhu cầu của nền khoa học hiện đại, thì chính là đạo Phật. Phật giáo không hề cần phải tu chính quan điểm giáo lý để theo được khoa học vì Phật giáo vừa bao gồm khoa học và vừa vượt xa khoa học nữa.(If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to surrender its views to science, because it embrasses science as well as goes beyond science).

Bài tìm học nhỏ này cũng nhằm mục đích nhắc nhở các bạn trẻ sống xa quê hương đang suy nghĩ và tìm kiếm những di sản truyền thống của cha ông chúng ta ngày xưa đang bị những người cộng sản ở Ba Đình chủ trương "khoa học hóa con người" làm tiêu diệt dần mòn. Chúng ta cũng nên nhìn nhận là các tài liệu nghiên cứu dữ kiện xã hội và tín ngưỡng ở xứ ta rất nghèo nàn. Suốt hơn một thế kỷ sống dưới ách đô hộ khắc nghiệt của người da trắng Pháp với sự tiếp tay khinh mạn và chà đạp của giáo sĩ Gia Tô xem dân bản xứ là "ngoại đạo" - tức là không biết tôn giáo là gì!! thì làm sao có những cuộc tìm hiểu tín ngưỡng bản địa.

Lại nữa, tiếp theo cuộc sống nô lệ là cuộc chiến đấu điêu tàn triền miên giữa bên thiện và bên ác. Cộng sản miền Bắc vì lợi ích của bè đảng cương quyết áp đặt đường lối "bác đi!!" trên toàn quê hương, thử còn ai có thì giờ và phương tiện tìm học hiểu cặn kẽ các sinh hoạt tín ngưỡng, như lề lối và ý nghĩa các phong tục đã dày nghìn năm trên đất nước.

Tại Hà Nội ngày nay đã có một viện Quốc Học, chuyên nghiên cứu những vấn đề khoa học xã hội. Ta đoán chắc phải có phần cho việc tìm hiểu các tín ngưỡng và phong tục thực hiện các tín ngưỡng đó, cho dù nhà cầm quyền có chủ trương loại bỏ Tự Do Tôn Giáo ra khỏi đời sống nhân dân. Ở ngoài nước cũng vậy, ước mong các bạn trẻ dùng chất xám của mình làm phương tiện yểm trợ cho sự nghiên cứu vốn rất phong phú tại đất Mỹ và thế giới Tự Do, kể cả các công trình dã ngoại, để cho các sinh hoạt xưa như việc thiết trí một bàn thờ (chỉ đơn cử một chi tiết nhỏ trong cách thiết lập hoàn chỉnh một bàn thờ Tổ Quốc và các vị Anh Hùng Tử Sĩ vị quốc vong thân theo di sản truyền thống mang theo từ trong xã hội Miền Nam Tự Do) khỏi phải bị quên lãng trong một tương lai rất gần. Mong lắm thay!

(Xin liên lạc E-Mail: hvuong31@gmail.com để có bài viết này hay bài viết khác của tác giả Bửu Tập)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/06/2011(Xem: 5127)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
26/05/2011(Xem: 2744)
Trong lịch sử hình thành Phật giáo Việt Nam nói riêng và Phật giáo châu Á nói chung, Luy Lâu được coi là chiếc nôi của Phật giáo. Nó được coi là Trung tâm Phật giáo xuất hiện sớm nhất trong ba trung tâm Phật giáo thời kỳ khởi thuỷ ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á: Trung tâm Phật giáo Luy Lâu; Trung tâm Phật giáo Lạc Dương và Bành Thành (thuộc Trung Hoa).
14/05/2011(Xem: 6909)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ. Ngay đối với số đông các Phật tử Việt Nam, Thiền tông cũng là một tông phái được ít người hiểu đến vì tính cách kỳ đặc của pháp tu này, vì vậy nên có những xét đoán, phê bình không đúng. Chúng ta nên tránh việc phê bình, chỉ trích các tông phái khác tông phái mình đang tu, vì tông phái nào cũng đòi hỏi một sự học hỏi sâu xa, nên thường khi chỉ trích các tông phái khác thì chỉ căn cứ theo một số hiểu biết hời hợt về tông phái đó, vì vậy những lời chỉ trích thường không đúng được, và chỉ gây thêm những tranh luận vô ích, mất thì giờ. Chúng ta nên tìm học kỹ để phân biệt rõ ràng và thực hành đúng lời Phật dạy, chứ không phải để tranh luận, chỉ trích.
14/04/2011(Xem: 6030)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
12/04/2011(Xem: 11901)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
12/04/2011(Xem: 9590)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
04/04/2011(Xem: 6840)
Khởi đi từ Ấn Độ cách đây 2556 năm về trước, giáo lý của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni bắt đầu tỏa chiếu từ cội cây Bồ Đề linh thiêng và kể từ đó đến nay giáo lý từ bi trí tuệ ấy đã làm cho không biết bao nhiêu chúng sanh được gội nhuần ân pháp vũ. Bất luận là Á Âu hay Mỹ Phi Úc, đâu đâu nếu có những người hướng thiện, muốn tu học và cần cầu sự giải thoát; thì giáo lý kia chính là những chất liệu dưỡng sinh để giúp cho con người mau ra khỏi vòng tục lụy của một kiếp nhân sinh
10/03/2011(Xem: 6455)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
05/01/2011(Xem: 2619)
Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch có những biến chuyển rất lớn về những vấn đề xã hội, văn hoá tư tưởng và tôn giáo. Vào thời điểm này, Ấn Độ chưa phải là một quốc gia rộng lớn độc lập mà bao gồm nhiều tiểu vương quốc khác nhau. Và các tiểu vương quốc ở những khu vực biên giới từ lâu được xem là man di nay đang vùng lên chiếm ưu thế và họ có những thế lực nhất định trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Bà-la-môn giáo từ lâu được xem là tôn giáo chính thống đang bị suy giảm uy tín cũng như quyền lực lãnh đạo tinh thần xã hội. Lòng người trở nên hoang mang và hầu như mất đi nơi quy hướng.
29/12/2010(Xem: 3478)
Mùa Xuân là mùa đâm chồi nẫy lộc của thiên nhiên. Cách đây hơn 25 thế kỹ, nhân loại cũng đã chứng kiến một hiện tượng “đâm chồi nẫy lộc” khác vĩ đại và tuyệt vời hơn nhiều. Không phải của thiên nhiên mà của trí tuệ, không phải làm đẹp cảnh vật mà làm sáng lên một con đường giải phóng chúng sinh thoát khổ. Hiện tượng khai hoa nở nhụy đó là sự thành hình của Tăng đoàn Phật giáo (Tăng già, Sangha) do chính Đức Phật khai sinh, nuôi dưỡng và uốn nắn để từ đó lớn lên, lan rộng, vượt thời gian, tồn tại cho đến ngày nay dưới những chiếc tăng bào nhiều màu sắc trên khắp mặt địa cầu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567