Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

CHỦ NGHĨA DÂN TỘC PHẬT GIÁO Ở MIẾN ĐIỆN

08/04/201308:32(Xem: 3420)
CHỦ NGHĨA DÂN TỘC PHẬT GIÁO Ở MIẾN ĐIỆN
CHỦ NGHĨA DÂN TỘC PHẬT GIÁO Ở MIẾN ĐIỆN
Nguyên tác: Buddhist Nationalism in Burma by Maung Zarni (*)

Dr_ZarniHệ thống hóa sự kỳ thị chủng tộc chống người Hồi giáo Rohingya đã dẫn Miến Điện tới con đường diệt chủng. ( Institutionalized racism against the Rohingya Muslims led Burma to genocide) (Hình bên; tác gỉa)

Ở bên ngoài Miến Điện, hình ảnh những nhà sư Theravada Miến qua cuộc “Cách Mạng Áo Vàng” (Saffron Revolution) năm 2007, vẫn còn tươi màu. Với sự hỗ trợ của nhân dân Phật tử sùng tín, từng đoàn sư áo vàng miệng râm rang tụng niệm những lời từ bi xen lẫn thính âm của tình yêu thương trên khắp đường phố Rangoon, Mandalay, và Pakhokeku, kêu gọi sự cải thiện đời sống cho công chúng trước tình cảnh kinh tế khốn đốn gây khổ cho người dân Phật tử. Những vị sư chân trần can trường chống đối sự cai trị quân phiệt, là hình ảnh tuyệt vời của Phật Giáo dấn thân, âm vang một phó bản Tinh thần phương Đông cổ đại của Phật Giáo hành động, làm biến dạng hình ảnh của những người Phật tử thường có là sự khả ái, nụ cười, lòng mến khách đang dẫn đạo một cuộc sống đầy ý nghĩa, cho một phần thế giới không-Phật-Giáo thấy con đường mà Phật Giáo ấp ủ cho hòa bình.

Thế mà trong năm ngoái, thế giới sững sờ trước hình ảnh những nhà sư cũng chiếc áo vàng ngày trước, biểu tình chống đối các nước Hồi Giáo phân phối thực phẩm cứu trợ cho dân đói vùng Rohingya, phải di cư đến những trại tị nạn ngay trên quê hương của họ, sau khi bị những người Phật Giáo Rakhine tấn công. Một cuộc diệt chủng của người Phật Giáo kỳ thị chủng tộc chống lại dân Hồi Rohingya, một cộng đồng thiểu số non một triệu người ở phía tây tỉnh Rakhine (còn có tên gọi khác là Arakan) Miến Điện, là một tai biến cho công tác cứu trợ nhân đạo quốc tế. Nhà nước quân-phiệt-trị không ngừng toan tính xóa bỏ dấu vết chủng tộc Rohingya, một thành phần thiểu số đã từng được chế độ dân chủ U Nu nhìn nhận năm 1954. Thực vậy, trong vài tháng bạo động vừa qua, bắt đầu từ tháng Sáu 2012, dân Rohingya đã bị thiệt hại đến 90 phần trăm gồm số người thiệt mạng và nhà cửa bị phá hủy, có làng và vài vùng phụ cận bị tàn phá hoàn toàn. Đàng sau làn sóng bạo động ở Rohingya, là một loạt những vụ giết người, đốt nhà, và những cơn giận dữ cuồng điên đã đổ lên đầu dân Rohingya, được hỗ trợ ngầm bởi lực lượng an ninh Miến Điện.

Diễn biến trong vài năm vừa qua là sự căng thẳng và cuồng nộ của kỳ thị chủng tộc, nổi lên từ những người Phật Giáo Tiểu Thừa Miến –những kẻ đã tham dự vào cuộc tàn phá cùng với chủ trương tống xuất dân Hồi Giáo Rohingya. Những điều hung ác ấy được nhân danh chủ nghĩa dân tộc Phật Giáo Miến Điện, vốn không thể nào kết nối được với lý tưởng của từ-bi-tâm (tiếng Pali: metta). Người Phật tử Rakhine đã ném những đứa bé Rohingya vào trong những đám lửa cháy ngay chính căn nhà của chúng trước mắt những người thân trong gia đình. Vào ngày 3 tháng Sáu, 10 người Hồi giáo ở ngoài địa phận tới hành hương, đã bị kéo lôi ra khỏi xe bus ở phố Rakhine, Taunggoke, chừng 200 dặm về phía tây Rangoon (thủ đô cũ), và họ bị đánh đập cho tới chết bởi một nhóm hơn 100 thanh niên Phật tử. Tội ác xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, trước mắt của công chúng và nhân viên cảnh sát địa phương.

Một trong những cảnh tượng đáng kinh ngạc là sự kỳ thị chủng tộc chống dân Rohingya đặc biệt xảy ra ngay vùng trung tâm, tràn ngập người Miến đa số, không hề thấy một bóng dáng người Rohingya nào –họ vốn cư ngụ ở vùng Rakhine phía tây Miến Điện, giáp ranh với Bangladesh.

Diện mạo bề ngoài –ngoại trừ ngôn ngữ, tôn giáo, giai cấp xã hội, là chỉ dấu để nhận diện người cùng cộng đồng dân tộc. Màu da đóng vai trò quan trọng để người ta quan sát, giám định sự kỳ thị ở Á Châu. Rohingya là một chủng tộc có mà da nâu hơn –đôi khi họ còn bị gọi chế nhạo là bọn “Bengali kalar” (có ý miệt thị). Thực vậy, người Phật Giáo có màu da sáng hơn, thường không bị nỗi sợ hãi như người dân có màu da nâu sậm, mà lại còn được ưu ái, kính trọng, và được bảo vệ.

Sự áp chế và thù ghét dữ dội nhắm vào người Hồi Giáo còn mở rộng đến những người Phật Giáo nào đi giúp đỡ dân Hồi. Tháng Mười 2012, một số thanh niên Phật Giáo Rakhine bị nêu đích danh, rồi họ bị hạ nhục, bắt đi diễu hành khắp các đường phố, treo trên người một tấm bảng viết tay, “Tôi là kẻ phản bội.” Tội phạm của họ là gì vậy? –Tội đã bán phẩm vật cho một người Hồi giáo Rohingya.

Tinh thần Đông phương về Phật Giáo đã được tô-hồng quá đậm đối với người phương Tây, làm cho họ sẽ vô cùng kinh ngạc khi nghe nói sự tàn ác xuất phát từ một quần chúng Phật Giáo võ trang, hay một chế độ chính trị nào đó hỗ trợ hay xúi khiển Phật Giáo như là công cụ ý thức hệ.

Hình ảnh phổ biến của Phật Giáo là hòa bình, thuyết lý tôn giáo đầy nhân-bản-tính trái ngược với một chiều dài lịch sử những đế quốc Phật Giáo đầy bạo động –từ Hoàng đế Ashoka trên bán lục địa Ấn Độ cổ đại đến các chế độ quân chủ tiền-thực-dân Sri Lanka, Siam (Thái Lan), và các vương quốc Khờ-me hay Miến Điện –vài nơi đã phát động chiến tranh phải cậy nhờ vào phật-pháp (dharma). Sự đàn áp dưới chế độ của Tổng thống Miến Thein Sein và kẻ đồng lân ở Sri Lanka –Tổng thống Rajapaksa, chỉ là vài thí dụ mới nhất trong chiều dài các chế độ Phật Giáo hung bạo.

Thành kiến bao giờ cũng tăng trưởng trong những cộng đồng có sự khác biệt về tín ngưỡng, giai cấp và chủng tộc cùng nhau chung sống. Song, diệt chủng không phải là điều không thể tránh được; bảo vệ phải xuất phát từ định chế hữu cơ, với những tổ chức có quyền lực được ban hành bởi luật pháp của chế độ. Đoàn thể chính trị và cư sĩ Miến Điện –trong khi được thế giới biết đến với những lý tưởng của nhân quyền và dân chủ xuyên qua các tổ chức xã hội thiên tả có bằng chứng thất bại với thử thách điều mà Aung San Suu Kyi vang danh gọi là, “cuộc cách mạng tinh thần”. Thay vào đó, họ đã chọn theo đuổi một chủ nghĩa dân tộc phá sản đóng rễ trong nỗi lo sợ mất nhà cửa, đất đai, sự thuần tính về tôn giáo và chủng tộc.

Chế độ Miến Điện đã vận động tình thần thù ghét Hồi Giáo xuyên qua các cơ cấu tổ chức, bao gồm hệ thống truyền thông chính phủ, các mạng Net xã hội, kể cả Facebook của văn phòng tổng thống.. Các mạng Net xã hội tiếng Miến trong nổ lực thoát ra khỏi tầm quan sát của truyền thông quốc tế, thường văng ra thứ ngôn ngữ thù hận thô tục. Phổ biến những bức hình nạn nhân của Hồi Giáo, kể cả Rohingya trên trang Facbook –chắc là dễ dàng cho các mạng lưới truyền thông xã hội của một nước Miến Điện mở cửa đổi mới –chắc sẽ được chào đón với sự đồng lòng của các công dân mạng Phật Giáo trong và ngoài nước. Rất ít người Miến, các nhà hoạt động cho nhân quyền nước ngoài, các ký giả còn dám lên tiếng chống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, phát xít trong xã hội Phật Giáo đang bành trướng với những lời chửi rũa, đe dọa và thù ghét. Các ký giả đã mất hết tinh thần với khối lượng điện thư đầy những lời lẽ thù hận hung dữ họ nhận được từ những công dân Miến sau một vài bài báo kết án những hành vi bạo động vừa mới xảy ra cho lên báo.

Trong một tài liệu vừa được hãng Al Jazeera phát hình vào ngày 9/12/2012, Giáo sư William Achabas, một trong những chuyên gia hàng đầu về vấn nạn diệt chủng, mới đây từng là chủ tịch Hội Các Học Giả Quốc Tế về Diệt Chủng, đã xếp loại việc bạo hành chống dân Rohingya thuộc vào loại diệt chủng. “Chúng tôi đi đến một vùng mà ở đấy chỉ có thể dùng từ ngữ diệt chủng để mô tả,” Schabas nói, “Khi ta thấy tầm mức ngăn chận sự sinh sản, nổ lực xóa sạch căn cước của một chủng tộc, mong cho nó… sẽ không còn hiện hữu, chối bỏ lịch sử, phủ nhận quyền chính đáng được sống và sống ở nơi đâu của một nhóm người, thì đấy là những dấu hiệu cảnh báo rằng nó không phải là chuyện nhỏ để nói thẳng bằng danh từ diệt chủng.”

Hội Nghị Quốc Tế về Phòng Vệ và Trừng Phạt Tội Ác Diệt Chủng đã được ban hành từ ngày 12 tháng 1, 1951, đã phán quyết rằng: “Với Hội Nghị này, diệt chủng có nghĩa là bất cứ một trong những hành động theo sau có mục đích hủy hoại, toàn thể hay từng phần, quốc tịch, chủng tộc, dòng giống và thành phần tôn giáo, chẳng hạn như:

(a) Giết hại các thành viên của một nhóm đồng chủng;

(b) Gây thương tích thể xác hay tinh thần đến thành viên của nhóm;

(c) Chủ tâm gây thương tổn đến điều kiện sống với mưu toan mang đến sự hủy hoại thể chất hoàn toàn hay từng phần;

(d) Ép buộc có chủ đích ngăn chận sự sinh sản;

(e) Dùng sức mạnh để chuyển đổi trẻ em từ một nhóm người này sang một nhóm khác.

Các nhà lãnh đạo Miến Điện, các tổ chức xã hội lẫn chế độ chính trị Phật Giáo, đã can dự vào 4 điều vi phạm trước, mặc dù họ đã phủ nhận sự sai trái của các lực lượng an ninh, trong suốt 6 tháng bạo động năm 2012, để lại 167 dân Hồi Giáo Rohingya chết và 110 ngàn người khác phải tị nạn.

Theo tinh thần đoạn văn (e) thì sự thiếu ăn của các trẻ em Rohingya, hay chúng không hề được chăm sóc về học hành, hẳn không thể gọi là bị “áp lực chuyển dời nơi cư trú”, ngược lại các trẻ em Rohingya lại bị giết hại –bằng đâm chém, nhận chìm dưới nước, thiêu sống –bởi những người Phật Giáo Rakhine.

Trong buổi diễn thuyết với công chúng ở Brunei, Đông Nam Á châu, vào ngày 2 tháng 12, 2012, Giáo sư Ekmeleddin Ihsanoglu, Tổng thư ký của Tổ chức Tác hợp Hồi giáo (OIC), được một sinh viên hỏi –vì sao với 57 đại biểu thành viên quốc gia, về lý thuyết, tối thiểu có 1.5 tỷ người Hồi Giáo –lại không biết gởi thông điệp về nạn khủng bố thiểu số người Hồi giáo cho khắp thế giới biết đến. Để trả lời, Ishanoglu cho rằng thần tượng dân chủ Miến Điện là người được giải Nô-ben Hòa bình Aung Suu Kyi vừa là một nhà hoạt động nhân quyền cho Phật Giáo Miến Điện. Ông nói, Suu Kyi, “chỉ quan tâm đến nhân quyền cho người Phật Giáo, bởi vì họ là con người, còn Hồi Giáo thì không.” Sự xúc động đàng sau câu tuyên bố trên là điều có thể hiểu được; thật ra đó là tính toán chính trị. Aung San Suu Kyi sẽ chẳng được gì, nếu như công khai tuyên bố chống lại sự đối xử với người Hồi giáo Rohingya. Bà không còn là một nhà đối kháng chính trị nữa, nay bà là một chính trị gia, và bà đang nhắm tới mục tiêu trước mắt: thắng cuộc bầu cử 2015 với lá phiếu của Phật Giáo đa số.

Trước buổi diễn thuyết ở Brunei, Giáo sư Ihsanoglu đã gửi một lá thư cho bà Suu Kyi nhân danh Tổ chức OIC, trong đó ông nhấn mạnh với người lãnh đạo tổ chức Liên Minh Dân tộc cho Dân chủ cần phải biết dùng uy thế lớn lao, tầm ảnh hưởng xã hội của bà, đẩy lùi làn sóng kỳ thị chủng tộc người Hồi giáo ở Rohingya nói riêng, và dân chúng Hồi giáo nói chung. Nhưng ông chỉ nhận được sự im lặng. Đã thất bại trong việc làm giảm thiểu sự vi phạm nhân quyền chống người Rohingya, nhà lãnh đạo thần tượng của Miến Điện –người mà một số Phật tử Miến coi như một “vị Phật” –coi như thất bại luôn trong bước diễn hành với chủ nghĩa nhân đạo Phật giáo.

Ngày 4 tháng Giêng, 2012, nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày độc lập của Miến Điện thoát khỏi sự cai trị của Anh quốc, Suu Kyi nói trong bài diễn văn tại trung tâm Liên minh Tác hợp Dân Chủ rằng, người dân Miến Điến phải biết dựa vào chính mình, nếu muốn biến giấc mộng một quốc gia tự do và phú cường trở thành hiện thực. “Đừng bao giờ mong đợi một vị cứu tinh,” bà cảnh báo. Thế nhưng, theo tạp chí Irrawaddy, trong một bài bình luận mới đây, viết rằng “Suu Kyi nói đúng, Miến Điện không cần một vị cứu tinh; song Miến Điện cần một nhà lãnh đạo.”

Nhà lãnh đạo với 25 năm của phong trào nhân quyền Miến Điện, giờ đây nói bằng ngôn ngữ của an ninh quốc gia, chủ quyền tuyệt đối, và nhân quyền có điều kiện, vang vọng thứ ngôn ngữ và ý tưởng của những kẻ từng bắt giam bà –bọn quân phiệt. Liên minh NLD và sự đối kháng dân chủ đã thất bại với sự mâu thuẫn bởi chính cá nhân và ý hệ của riêng nó. Họ ôm ấp thứ nhân quyền có điều kiện và chủ quyền tuyệt đối là chỉ dẫn cho thấy họ cũng đã nói thứ ngôn ngữ của Phật Giáo, với tâm yêu thương phổ biến nhưng lại trật bước chân. Nhiều lãnh đạo sinh viên và hoạt động nhân quyền từng đứng dậy trong năm 1988 đã dành nửa cuộc đời của họ trước vành móng ngựa và bên các song sắt của nhà tù Insein, nổi danh là “những tù nhân của lương tâm” đã không chịu sẵn sàng nối tiếp cho lý tưởng nhân quyền của những người Hồi giáo Rohingya, một chủng dân mà Ủy Hội Quốc Tế đã xác nhận là một trong những thành phần thiểu số bị đàn áp nặng nề nhất trên thế giới.

Phật Giáo, là một hệ thống triết lý và tôn giáo, tuyệt đối không hề có sự tương thích nào với những tổ chức văn hóa, kinh tế và chính trị mà người ta thường gọi là ‘quốc-chế’ (nation states). Phật Giáo không phải như người ta thường tưởng tượng tới một cộng đồng dân tộc dựa vào sự đối xứng xã hội, mà phải là sự sử dụng trí năng con người để nhìn xuyên suốt cốt lõi thực tính phi hiện hữu của bản thân nó. Vả lại, ở Miến Điện thứ triết học nhân đạo này, đã xác nhận nó không đủ tư thế để bảo vệ chống lại cái vòm định kiến xã hội và những kẻ xướng xuất tinh thần dân tộc cực đoan, những người Miến ồn ào vốn tự nhận mình bám rễ vào tín ngưỡng Phật giáo, thực hành đúng mọi nghi lễ và là kẻ đỡ đầu cho các tổ chức Phật giáo, và rồi họ cứ tiến lên can dự vào các hành động tàn ác không diễn tả nỗi chống lại bất cứ ai, mà họ nghĩ là kẻ thù của Phật giáo, chế độ chính trị Phật giáo, sự giàu sang của Phật giáo, phụ nữ Phật giáo, đất đai của Phật giáo. Thay vì truyền hướng các nguyên tắc của lòng khoan dung tôn giáo trong xã hội, bất phân biệt, và hiệp thông xã hội giữa những người thế tục mộ đạo, thì các vị tu sĩ Phật giáo đầy ảnh hưởng, thẳng thừng phê phán và biểu tình chống lại người Hồi giáo Rohingya, biến thành một đe dọa nguy hiểm nhất cho tất cả mọi người.

Xuyên qua sự cai trị của ngoại nhân Anh từ 1824 đến 1948, nền Phật Giáo của một Miến Điện thuộc địa đã góp phần tạo dựng một căn cước dân tộc chung, giữa mọi giai tầng xã hội và các cộng đồng Phật giáo khác biệt chủng loại mâu thuẫn về quyền lợi chính trị, đều cùng có chung những nổ lực phối hợp chống-đế-quốc. Trong khi đó, sự bùng phát chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc hiện nay chính là kết quả trực tiếp từ nửa thế kỷ của chế độ quân phiệt bạo ngược. Xây dựng chu đáo một chuồng sắt –bằng những tảng đá nguyên khối quý giá, một thứ đặc tính chủng tộc –giam hãm và tự nhiên hóa nhãn quan một hình thái văn hóa dân tộc Miến Điện. Một chủng dân cố duy trì tiềm lực ưu thế, biến Phật Giáo trở thành cốt lõi nhằm nhận diện căn cước một người Miến đích thực.

Đối với những người Phật giáo Miến thiểu số, sự kết hợp chủ nghĩa dân tộc Phật giáo với tinh thần cực kỳ phân biệt chủng tộc đã phục vụ cho sự hợp lực ban đầu kêu gào chống lại chế độ Raj bù nhìn đế quốc Anh, giờ đây bị rẻ rúng như là chuyện của quá khứ. Thế nhưng đối với nhiều người Phật giáo Miến khác, chủ nghĩa dân tộc đồng-chủng đồng-tín-ngưỡng trước đây từng phục vụ cho phong trào độc lập dân tộc đã ban phát môi trường cho sự kỳ thị chủng tộc nở hoa.

Những lực lượng xã hội ảnh hưởng tinh thần Phật giáo, đã chứng tỏ như một con dao hai lưỡi trong nhiều năm qua. Trong thời kỳ hậu-thế chiến II đến cuối thập niên 1940, cuộc cách mạng dân tộc ảnh hưởng tinh thần Mác-xít được lãnh đạo bởi Aung San (thân phụ của Aung San Suu Kyi) đã tiến dẫn tới một chủ nghĩa quốc gia dân sự, thế tục và đa văn hóa. Năm 1948, sau khi Aung San bị ám sát bởi một đối thủ chính trị (chừng 90 ngày sau khi đạt nền độc lập), Miến Điện bị rơi vào một chuỗi nổi loạn vũ trang chống lại chính quyền trung ương. Những người thừa kế Aung San đã từng bước từ khước chủ nghĩa quốc gia thế tục song hành với các cơ cấu xã hội dân sự để thoát khỏi chủ trương tạo dựng căn cước dân tộc bằng tinh thần tín ngưỡng -và- địa phương tính sắt máu.

Để chống lại bối cảnh đó, tinh thần phân biệt chủng tộc phổ cập của Phật giáo đa số, biểu thị bằng một tiềm lực xã hội chiếm ngự bởi bộ phận công an chế độ Miến Điện, thống hợp để cùng chống các công dân Miến Hồi giáo. Quyền lực chính trị Miến Điện bao gồm, những tướng lãnh và cựu tướng lãnh đầy ưu thế, cùng với những chủ nhân đầy lòng khoan dung trong các hoạt động Phật giáo như bố thí, xây dựng chùa chiền, tự viện. Những kẻ lãnh đạo quân phiệt này sẽ tiếp tục nuôi dưỡng cơn nghiện ‘ma túy’ của đám đông quần chúng –như một yêu cầu chính đáng của Phật giáo, với hiệu quả của nó là bình thường hóa sự khổ đau cho quần chúng, chừng nào mà người Phật tử còn tin tưởng chính lòng sùng đạo, chứ không phải là yếu tố kinh tế chính trị, là một hứa hẹn sự tái sinh đời sau sẽ tốt đẹp hơn. Như một viên chức chế độ đã nói với tôi rằng, “Mấu chốt của vấn đề là, chúng tôi không muốn có thêm “bọn Hồi” (‘Mus’) trong đất nước này, nhưng chúng tôi không thể giết hết bọn họ.” Thế là như một giải pháp, các nhà lãnh tụ cải cách đã chuyển giao công tác diệt chủng nơi vùng Đất Vàng (Golden Land) này qua những bàn tay của Phật giáo Rakhine.

(*) Dr. Maung Zarni là một nhà hoạt động nhân quyền Miến Điện, một học giả. Hiện nay, ông là một ‘visiting fellow’ tại Trường Kinh tế Luân Đôn; là người sáng lập tổ chức Liên minh Tự do Miến Điện.

(Maung Zarni is a Burmese activist and scholar. He is a visiting fellow at the London School of Economics and the founder of the Free Burma Coalition.)

Chuyển ngữ: Nguyễn Văn Hóa

Source link: http://www.tricycle.com/feature/buddhist-nationalism-burma

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/07/2011(Xem: 30989)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 6746)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 9683)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
24/06/2011(Xem: 3040)
Theo kết quả điều tra dân số năm 2001, Ấn Độ quê hương của Đức Phật, hiện là quê hương của 3.881.056 nữ Phật tử (1). Hiện ước chừng có khoảng 300 triệu nữ Phật tử trên thế giới, trong đó 130.000 vị Ni. Cộng đồng ngày càng lớn mạnh này có một vị trí rất đáng tự hào trong một truyền thống mà ở đó Ni giới và nữ Phật tử từ rất lâu đã là một bộ phận không thể tách rời của Tăng già, gần như ngay khi Tăng già được thành lập. Tuy vậy, ngoài những câu chuyện cảm động được kể lại trong Trưởng lão Ni kệ (2), một cuốn sách trong đó các vị Tỳ kheo Ni tiền bối kể lại quá trình nỗ lực cố gắng và những thành quả mà các vị đã đạt được trên bước đường tới quả vị A La Hán, không có một chứng cứ lịch sử nào được chứng minh. Kết quả là, ghi chép về những đóng góp của nữ giới Phật giáo giờ chỉ còn lại trong những nhân vật văn học của Trưởng lão Ni kệ.
24/06/2011(Xem: 3177)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau nầy được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN, là kết quả tích tụ của nhiều phát triển vốn có từ trước. Nguồn gốc của nó không liên hệ với một cá nhân nào, và cũng không đặc biệt liên kết với một tông phái nào của thời kỳ Phật Giáo sơ khai. Có thể phong trào đó khởi dậy từ nhiều nơi trong xứ Ấn Độ, tại miền nam, miền tây bắc và miền đông.
23/06/2011(Xem: 2843)
Quảng Hoằng Minh Tập là bộ sử liệu về tư tưởng Phật giáo do danh tăng Thích Đạo Tuyên (596-667) đời Đường biên soạn. Sách gồm những bài viết Phật học từ đời Ngụy Tấn đến sơ Đường của hơn 130 tác giả.
20/06/2011(Xem: 8404)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
20/06/2011(Xem: 3034)
Thông thường ai cũng nghĩ rằng đạo Phật chỉ mới được truyền sang tây phương trong các thế kỷ gần đây mà thôi, mà quên rằng trong nhiều thế kỷ trước tây lịch PG đã thấm nhuần vùng Tiểu Á và tây bắc Ấn, rồi ảnh hưởng trên cả nền triết học Hy-lạp và giáo lý của vài tôn giáo lớn có nguồn gốc tây phương. Phật tử Việt nam vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm giáo pháp truyền từ Trung quốc nên ít biết đến sự giao hòa của hai nền văn hóa Hy-lạp và PG khởi đầu rất sớm ở vùng đất này.
18/06/2011(Xem: 5554)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]