Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự truyền thừa từ Viện Nghiên Cứu PG Trung Hoa đến Học Viện PG Pháp Cổ

19/04/201500:19(Xem: 3572)
Sự truyền thừa từ Viện Nghiên Cứu PG Trung Hoa đến Học Viện PG Pháp Cổ


Pagoda_3

SỰ TRUYỀN THỪA TỪ VIỆN NGHIÊN CỨU

PHẬT GIÁO TRUNG HOA ĐẾN HỌC VIỆN PHẬT GIÁO PHÁP CỔ




Thích Giải Hiền

Giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội

Hội trưởng Hội Sự Nghiệp Từ Thiện Minh Đức

(Dịch từ bài phát biểu của thượng tọa Huệ Mẫn –

Hiệu trưởng học viện Phật Giáo Pháp Cổ)



Dấu ấn làm giáo dục của giới Phật Giáo đương đại


Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại học ở Trung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” (năm 1912 chính phủ Dân Quốc thành lập đổi tên thành Đại Học Bắc Kinh) năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.

Trước năm 1920, Đại học ở Trung Quốc đều là dân lập như Đại học Đông Ngô, Đại học Tế Lỗ, Đại học Saint Jonhs. Theo tư liệu thống kê vào lúc đó trên 80% sinh viên đều theo học tại các trường Đại học do giáo hội Cơ Đốc giáo (đạo Chúa và đạo Tin Lành) thành lập.

Sau năm 1920, các trường Đại học công lập như Đại học Đông Nam, Đại học Giao Thông, Đại học Quảng Đông, Đại học Thanh Hoa lần lượt được thành lập và ảnh hưởng của trường đại học công lập cũng được lớn mạnh dần. Năm 1929, chính phủ công bố quy trình quy mô đại học và luật tổ chức đại học, yêu cầu đưa tất cả các trường đại học dân lập vào hệ thống quản lý pháp luật, các điều kiện thành lập đại học tư thục đều có quy định hạn chế. Do vậy, vào thời đó nhân duyên để giới Phật Giáo thành lập trường Đại học không thể hội đủ được.

Năm 1949, sau cuộc nội chiến Quốc Cộng, chính phủ Dân Quốc dời ra đảo Đài Loan, do kinh nghiệm đối phó với các phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên trước đó ở đại lục nên trên phương diện chính sách đã tăng cường quản lý và hạn chế việc thành lập các trường Đại học tư thục.

Năm 1974, chính phủ ban bố luật Đại học tư thục quy định tất cả các trường Đại học tư thục đều phải đăng kí thành “tài đoàn pháp nhân” (hình thức sở hữu tập thể). Thập niên 70, Đài Loan đối diện với những thử thách của cuộc khủng hoảng dầu mỏ trên thế giới, những nhu cầu bức thiết về đội ngũ nhân tài kỷ luật cao của các công ty, xí nghiệp đã làm cho những chính sách hạn chế việc xin thành lập trường tư thục kéo dài suốt 13 năm phải được thay đổi.

Từ năm 1985 bắt đầu mở cửa lại nhưng chỉ cho phép các học viện kỹ thuật công nghệ, y khoa và kỹ thuật nghề. Do đó, giới Phật Giáo thành lập Học viện công nghệ Hoa Phạm (chiêu sinh năm 1990 đến năm 1997 đổi thành Đại học Hoa Phạm). Học viện Y Khoa Từ Tế (năm 1994 chiêu sinh, đến năm 2000 đổi thành Đại học Từ Tế). Sau đó, chính phủ tiếp tục mở cửa cho phép thành lập học viện tư thục xã hội nhân văn nên Học viện quản lý Nam Hoa (chiêu sinh năm 1996, năm 1999 đổi thành Đại học Nam Hoa). Học viện xã hội nhân văn Huyền Trang (chiêu sinh năm 1997, năm 2004 đổi thành Đại học Huyền Trang ra đời). Năm 1998, Học viện xã hội nhân văn Pháp Cổ được thành lập cho đến Học viện xã hội nhân văn Phật Quang (chiêu sinh năm 2000, năm 2006 đổi thành Đại học Phật Quang) được thành lập tạo thành làn sóng xây dựng Đại học tư thục trong giới Phật Giáo.

Học viện nghiên cứu tu tập Tôn Giáo

Gần mấy chục năm nay tại Đài Loan có 130 cơ sở gồm: Phật học viện, Chủng viện, Viện thần học Tin Lành, Viện Nhất Quán đạo được Bộ Nội Chính Đài Loan cấp phép thành lập và chiêu sinh nhưng tất cả đều không được đưa vào hệ thống giáo dục thuộc bộ giáo dục quản lý và văn bằng cũng không được bộ giáo dục công nhận vì thuộc sự quản lý của Bộ Nội Chính. Do đó, đã tạo ra rất nhiều trở ngại cho sự phát triển giáo dục Tôn giáo tại Đài Loan (trừ hệ thống các đại học tư thục do tôn giáo lập thuộc bộ giáo dục quản lý thì hệ thống văn bằng đều được bộ giáo dục công nhận).

Một điều thay đổi to lớn là cuối năm 2000 tại hội nghị bàn về những vấn đề liên quan đến giáo dục Tôn giáo đã quyết định dưới những điều kiện nhất định sẽ chấp thuận cho học viện Phật Giáo, chủng viện Thiên Chúa giáo và viện thần học Tin Lành cùng một số cơ sở nghiên cứu tu tập tôn giáo trực thuộc hệ thống giáo dục Đại học. Tháng 3 năm 2004, viện lập pháp (Quốc hội) đã thông qua bộ luật trường tư thục. Điều 9 chấp thuận việc thành lập các khoa, viện nghiên cứu và học viện Tôn giáo với mục đích đa nguyên nghiên cứu về học thuật Tôn giáo. Hiện nay có 9 trường Đại học có các khoa, viện tôn giáo học là Đại học Phụ Nhân (1988), Đại học Chân Lý (1996), Đại học Huyền Trang (1997), Đại học Chính Trị (1999), Đại học Nam Hoa (2000), Đại học Từ Tế (2000), Đại học Trung Nguyên (2000), Đại học Đông Hải (2001), Đại học Phật Quang (2001) cho phép các trường tư thục hoặc các pháp nhân tôn giáo được thành lập các học viện nghiên cứu tu tập tôn giáo thuần nhất và cấp phát học vị tôn giáo làm nền tảng để bồi dưỡng đào tạo các chức sắc và nhân tài tôn giáo. Đồng thời cho phép các học sinh, sinh viên được quyền tham gia các nghi thức tôn giáo là y cứ cho việc mở các học phần và các chuyên ngành về tu tập. Nhờ vậy, việc giáo dục tôn giáo thuần nhất ở Đài Loan lại có được một bước ngoặt phát triển mới, có thể kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghiên cứu học thuật và thực tiễn tu tập.

Học viên nghiên cứu tu tập Pháp Cổ, Học viện Phật Giáo Pháp Cổ

Năm 2006, Viện nghiên cứu Phật học Trung Hoa với 25 năm kinh nghiệm giảng dạy, với thành tích giao lưu hợp tác với 15 viện, trường trên thế giới và thành tích đào tạo hơn 10 vị sinh viên đạt học vị tiến sĩ đã là học viện đầu tiên gửi hồ sơ đến bộ giáo dục xin thành lập học viện nghiên cứu tu tập Pháp Cổ. Sau đó, theo nghị quyết của hội nghị đề án về phương pháp thành lập học viện nghiên cứu tu tập tôn giáo vào tháng 3 năm 2008 cho phép các khoa viện và học viện nghiên cứu tu tập tôn giáo, học vị và học trình có thể dùng tên gọi thường dùng của các khoa viện đã có mà không nhất thiết phải dùng cụm từ “nghiên cứu tu tập”. Nên ngày 18 tháng 8 năm 2008, Học viện đã đổi tên thành Học viện Phật Giáo Pháp Cổ để tiện trong danh xưng giao lưu quốc tế và trong tên viết tắt của học viện.

Trên phương diện nghiên cứu học thuật, từ đội ngũ giảng viên các bộ môn Phật học Ấn Độ, Phật học Trung Quốc và Phật học Tây Tạng dung hợp tinh hoa của Phật Giáo Hán truyền, Phật Giáo Nam truyền và Phật Giáo Tạng truyền mở ra kỉ nguyên mới cho việc nghiên cứu và tu tập trong Phật Giáo. Đồng thời mở rộng  và xây dựng học trình về công nghệ thông tin trong Phật học thành bộ môn công nghệ thông tin Phật học để bồi dưỡng nhân tài quản lý hệ thống tri thức và kinh điển Phật giáo kỹ thuật số. Đồng thời xem trọng việc bồi dưỡng ngữ văn Phật học tiếng Sanskrit , tiếng Ba-li, tiếng Tây Tạng , tăng cường ngoại ngữ Anh văn và  Nhật ngữ  xây dựng bộ môn phiên dịch kinh điển Phật giáo.

Trên phương diện thực tiễn tu tập, có thể kết hợp viện Phật học của đại học Tăng Già Pháp Cổ Sơn cùng với các thời khóa sang tối, thiền định và các khóa tu định kỳ của tằng đoàn  thành các thời khóa thường nhật để tu dưỡng việc thực tập trên phương diện tu tập . Đồng thời kết hợp các nguồn tài nguyên và cơ sở của tổ chức giáo dục Phật giáo thế giới Pháp Cổ Sơn để tiến hành việc thực tập tu thiền, lễ nghi và hoằng pháp trên phương diện lý luận và thực hành khảo sát sự diễn biến của lịch sử để thành lập và xây dựng các chương trình đào tạo phát triển việc nghiên cứu dung hợp với tu tập kết hợp giữa truyền thống và hiện đại tạo thành một tác phong học tập và nghiên cứu của Pháp Cổ .

Trong tương lai, Học viện Phật Giáo Pháp Cổ có thể kết hợp với Học viện xã hội nhân văn Pháp đang trong quá trình xây dựng để tạo thành một môi trường giáo dục và học tập đầy đủ tri thúc Phật Pháp và thế học giúp cho  sinh viên có thể hỗ trương trong việc chọn các học phần  vượt lĩnh vực và học hai văn bằng để đào tạo một đội ngũ nhân tài đầy đủ năng lực nghiên cứu tu tập Phật học và bản lĩnh chỉnh hợp tri thức khoa học tạo nên một đội ngũ nhân lực phục vụ xã hội với tinh thần tôn giáo hoàn bị. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/07/2011(Xem: 28174)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 5636)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 8342)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
24/06/2011(Xem: 2780)
Theo kết quả điều tra dân số năm 2001, Ấn Độ quê hương của Đức Phật, hiện là quê hương của 3.881.056 nữ Phật tử (1). Hiện ước chừng có khoảng 300 triệu nữ Phật tử trên thế giới, trong đó 130.000 vị Ni. Cộng đồng ngày càng lớn mạnh này có một vị trí rất đáng tự hào trong một truyền thống mà ở đó Ni giới và nữ Phật tử từ rất lâu đã là một bộ phận không thể tách rời của Tăng già, gần như ngay khi Tăng già được thành lập. Tuy vậy, ngoài những câu chuyện cảm động được kể lại trong Trưởng lão Ni kệ (2), một cuốn sách trong đó các vị Tỳ kheo Ni tiền bối kể lại quá trình nỗ lực cố gắng và những thành quả mà các vị đã đạt được trên bước đường tới quả vị A La Hán, không có một chứng cứ lịch sử nào được chứng minh. Kết quả là, ghi chép về những đóng góp của nữ giới Phật giáo giờ chỉ còn lại trong những nhân vật văn học của Trưởng lão Ni kệ.
24/06/2011(Xem: 2857)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau nầy được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN, là kết quả tích tụ của nhiều phát triển vốn có từ trước. Nguồn gốc của nó không liên hệ với một cá nhân nào, và cũng không đặc biệt liên kết với một tông phái nào của thời kỳ Phật Giáo sơ khai. Có thể phong trào đó khởi dậy từ nhiều nơi trong xứ Ấn Độ, tại miền nam, miền tây bắc và miền đông.
23/06/2011(Xem: 2485)
Quảng Hoằng Minh Tập là bộ sử liệu về tư tưởng Phật giáo do danh tăng Thích Đạo Tuyên (596-667) đời Đường biên soạn. Sách gồm những bài viết Phật học từ đời Ngụy Tấn đến sơ Đường của hơn 130 tác giả.
20/06/2011(Xem: 7232)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
20/06/2011(Xem: 2613)
Thông thường ai cũng nghĩ rằng đạo Phật chỉ mới được truyền sang tây phương trong các thế kỷ gần đây mà thôi, mà quên rằng trong nhiều thế kỷ trước tây lịch PG đã thấm nhuần vùng Tiểu Á và tây bắc Ấn, rồi ảnh hưởng trên cả nền triết học Hy-lạp và giáo lý của vài tôn giáo lớn có nguồn gốc tây phương. Phật tử Việt nam vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm giáo pháp truyền từ Trung quốc nên ít biết đến sự giao hòa của hai nền văn hóa Hy-lạp và PG khởi đầu rất sớm ở vùng đất này.
18/06/2011(Xem: 4855)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567