Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khởi Nguyên Của Giáo Lý Tịnh Độ Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Và Phật Giáo Đại Thừa Tại Trung Quốc

31/08/201020:27(Xem: 5583)
Khởi Nguyên Của Giáo Lý Tịnh Độ Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Và Phật Giáo Đại Thừa Tại Trung Quốc
Buddha_4
Khởi Nguyên Của Giáo Lý Tịnh Độ Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Và Phật Giáo Đại Thừa Tại Trung Quốc


"Niệm Phật, niệm Pháp niệm tăng, nhằm tự nhắc nhở mình, không làm các việc ác, siêng làm các việc lành, tâm luân hướng thượng. Khi nhớ nghĩ đến ba điều cao thượng trên, các tâm lý bất thiện như tham, sân, si không có cơ hội phát sinh,các ý niệm thuần thiện sanh khởi,hiện tại sống an lành, chân chánh." (Kinh Trung Bộ).

Dẫn nhập:
Không biết tự bao giờ, thiên nhiên nhiên đã ban tặng cho đất Ấn với một vùng đất rộng lớn hình tam giác ngược, như một tiểu lục địa nằm ở phía Nam châu Á, có dãy núi Hymalaya, nỗi tiếng là nơi linh thiêng huyền bí và hũng vĩ. Hai con sông linh thiêng nhất thế giới là sông Ấn và sông Hằng dài hơn một ngàn năm trăm cây số, được ví như hai cô gái kiều diễm uốn mình chảy dài trên đất Ấn, nhưng ngay từ thuở sinh ra nó đã ngoãnh mặt với nhau và chẳng bao giờ gặp nhạp nhau mãi mãi, mỗi ngày nó tẩy uế cho hàng triệu tín đồ Hindu, điều này đã nói lên mãnh đất nhiều li kỳ và huyền bí.

Nơi đây, còn biết đến là cái nôi của nền văn minh nhân loại. Nền văn minh ấy được hình thành vào khoảng 300 đến 2700 Tr.CN. Các tổ chức xã hội, kinh tế, văn hoá tín ngưỡng, triết học, lúc bấy giờ đã xuất hiện và phát triển.
Và đến thế kỷ thứ VI trước công Nguyên, Đức Phật Gotama là người khai sáng đạo Phật. Sự thật lịch sử được nhà khảo cổ khai quật trụ đá tại Lumbini năm 1896, và xác định niên đại đức Phật Gotama đản sanh năm 563 trước Công nguyên.

Theo dòng lịch sử thì sau khi xuất gia tu tập và thành đạo thuyết pháp rồi nhập Niết - bàn và giáo pháp của Ngài truyền bá cho đến ngày nay. Trong quá trình phát triển thì phân ra nhiều bộ phái, sau đó Phật giáo Tiểu thừa và Đại Thừa. Một hệ thống tư tưởng giáo lý vô cùng vĩ đại và đồ sộ, người hậu học về sau nếu không nghiên cứu kỹ lưỡng thì không biết phải bắt đầu học Phật tu Phật từ đâu.Và cũng không biết đi theo những tông phái nào thì tốt. 
 
Điều quan trọng hơn nữa là không biết khởi nguyên của Tịnh Độ Tông  xuất hiện từ lúc nào? tại quốc gia nào? Lại có những ý kiến lại cho rằng Tịnh Độ Tông chỉ có trong Phật giáo Đại Thừa. Và nguy hiểm hơn nữa là nhiều Phật tử mới vào học Phật tu tập còn hoang mang,thậm chí có những người đi chùa lâu năm vẫn còn bị lung lay niềm tin. 
 
Chính vì những thắc mắc đó làm chúng tôi thao thức trăn trở không biết giải thích thế nào để cho Phật tử họ có được chánh kiến để yên tâm tu tâp. Hi vọng bài viết mang tính nghiên cứu này sẽ cũng cố niềm tin tu học cho hành giả Tịnh Độ.

 1. Khởi nguyên của giáo lý Tịnh Độ trong Phật giáo Nguyên Thuỷ

Nhiều người lầm nghĩ Tịnh độ chỉ xuất hiện trong Phật giáo Đại Thừa. Điều này hoàn toàn không đúng.Thật ra pháp môn niệm Phật có từ trong Nguyên Thuỷ nhưng nó chỉ là manh nha qua lời dạy của Đức Thế Tôn chứ chưa hình thành tông phái. 
 
Phương thức niêm Phật được đức Thế Tôn dạy cho hàng Phật tử như sau: "Niệm Phật, niệm Pháp niệm tăng, nhằm tự nhắc nhở mình, không làm các việc ác, siêng làm các việc lành,tâm luân hướng thượng. Khi nhớ nghĩ đến ba điều cao thượng trên, các tâm lý bất thiện như tham, sân, si không có cơ hội phát sinh,các ý niệm thuần thiện sanh khởi,hiện tại sống an lành, chân chánh." (Kinh Trung Bộ)

Một bằng chứng khác trong kinh tạng Nikaya và Hán tạng ghi: "Pháp niệm Phật này gồm có ba cách: 1. Nhớ nghĩ Pháp thân Phật (Thật tướng niệm Phật), 2. Quán tưởng tướng hảo và công đức của Phật (Quán tưởng niệm Phật),3. Xưng niệm danh hiệu Phật (Trì danh niệm Phật)".

Kinh Tăng Nhất A Hàm có ghi lại rằng một hôm, khi đang trú tại tinh xá Kỳ viên, Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo rằng: "Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Đã tu hành một pháp rồi, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chổ vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa môn, tự đến Niết bàn. Một pháp ấy là gì? Đó là niệm Phật."

 2. Kinh Tăng Chi Bộ, phẩm một pháp cũng có nói đến lợi ích của pháp môn niệm Phật như sau: "Có một Pháp nào các Tỳ kheo,được tu tập, được làm sung mãn,đưa đến nhàm chán sung mãn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh,thắng trí giác ngộ, Niết bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỳ kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham,đoạn diệt, an tịnh thắng trí, giác ngộ, Niết bàn."
 
Như vây, chúng ta có thể khởi nguyên của Tịnh độ Tông có manh nha trong Phật giáo Nguyên Thuỷ. Còn ở Trung Quốc Phật giáo thịnh hành và được hình thành một tông phái phát triển rực rỡ, có đường hướng tu tập và có hệ thống giáo lý kinh điển đồ sộ và có cả lịch sử truyền thừa. Chúng ta tiếp tục tìm hiểu thêm một bước nữa về Tịnh Độ tông tại Trung Quốc dưới đây.

 3. KHỞI NGUYÊN TỊNH ĐỘ TẠI TRUNG QUỐC

Kinh điển Tịnh Độ tông tại Trung Quốc bắt đầu với quá trình phiên dịch tại Trung Quốc

1. Bát Chu Tam Muội (Pratyutpanna-buddha sammukhavasthita samadhi sutra)

Phật giáo từ Ấn độ và Tây vực được truyền vào Trung Quốc vào những năm trươc Công nguyên.Song khởi đầu của sự phiên dịch kinh điển được chính thức bắt đầu từ ngài An Thế Cao vào đời vua Hoàn Đế, thời Hậu Hán (147- 167). Sau đó, những nhà phiên dịch kế tiếp là Ngài Trúc Phật Sóc và Chi lâu- Ca - sấm (Lokakshema). Tháng 10 năm 179 TL,vào đời vua Linh Đế nhà Hán. Đây là văn bản kinh điển Tịnh Độ đầu tiên được xuất hiện tại Trung Quốc. 
 
Để xác định lại điều này qua cuốn Lịch sử giáo lý Tịnh Độ Trung Quốc viết: "Phật giáo Trung Quốc từ các nước Ấn Độ và Tây Vực truyền đến, vì thế điều tất nhiên phải lấy sự phiên dịch kinh điển làm đầu. Sự nghiệp dịch kinh ở Trung Quốc bắt đầu vào đời vua Hoàn Đế, thời Hậu Hán (147- 167 TL), ngài An Thế Cao là vị Tam tạng pháp sư đầu tiên dich kinh điển[1]."
 sự phiên dịch kinh điển được chính thức bắt đầu.           
2. Kinh A di Đà Amitabha - Sutra ( The Smaller Sukhavati- vyuha)

 Kinh A- di - đà do ngài Cưu - ma - la Thập (Kumarajiva) dịch tại Trường An vào niên hiệu hoằng thuỷ thứ 3(401 TL), đời Diêu Tần. Kinh Xưng tán Tịnh Độ độ Phật nhiếp thọ do ngài Huyền Trang dịch,vào năm Vĩnh Huy nguyên niên (650TL),đời Đường Phạn bản ngày nay vẫn còn.

3. Kinh A di da và Kinh Bình Đẳng Giáp

4. Kinh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm và Kinh Vô Lượng Thọ

5. Kinh Quán Vô Lượng Thọ...
 
4.Lịch sử 13 vị tổ  Tịnh Độ Tông

1. Huệ viễn ngài sinh tại thạch triệu năm Giáp Ngọ, niên hiệu Diên Huy đời vua Thánh Đế nhà Tấn

2. Thiện Đạo Đại sư đời nhà Đường thế kỷ thứ 7

3. Thừa Viễn đại sư đời Đường

4. Pháp Chiếu đại sư-đời Đường

5. Thiếu Khang Đại sư đời Đường thế kỷ thứ 7

6. Diên Thọ đại sư đời Tống

7. Tịnh Thượng đại sư đời Tống

8. Châu Hoàng đại sư đời Minh thế kỉ 15

9. Trí Húc Đại sư nhà Ngô

10. Hành Sách Đại Sư nhà Thanh

11. Thật Hiền đại sư đời Thanh

12. Tế Tỉnh Đại sư đời Thanh

13. Ấn Quang Đại sư đời Thanh.

Tuy nhiên, theo  quan điểm của tôi, dù đó là ai, tu theo tông phái nào, pháp môn nào, theo Nguyên Thuỷ hay Đại thừa thì chúng ta không thể bỏ qua con đường duy nhất đưa đến giải thoát đó là Giới - Định -Tuệ.

Khép lại bài viết, cho ta biết được về quê hương đất nước con người của vùng đất xứ Ấn thật đây linh thiêng huyền bí và thơ mộng. Ấn Độ cũng được biết đến là mọt trong năm nền văn minh của nhân loại. Đặc biệt nơi đây vào thế kỷ thứ VI đã xuất hiện một bậc vĩ nhân, một con người bằng xương, bằng thit có thật trong lịch sử đã ra đời và cứu độ sanh thoát khỏi phiền não khổ đau.

Như vậy, đến đây ta khẳng định rằng khởi nguyên của Tịnh Độ Tông đã có trong thời thời Phật giáo Nguyên thuỷ và về sau (147- 167 TL) thì mới được dịch sang tiếng Trung Quốc và phát triển thịnh hành tại Trung Quốc, mà ngày nay Tịnh Độ Tông đã trở thành một tông phái phát triển mạnh mẽ nhiều nước trên thế giới. Vì vậy những hành giả tu theo tông phái Tịnh Đô hãy củng cố niềm tin và tinh tấn tu học.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Thích Chúc Giác
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2016(Xem: 8146)
Tôi tới một miền quê, kề bên một trận địa vào một buổi chiều hoe nắng. Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông dân cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái im lìm ! Qua một đêm, ngủ đỗ, sáng hôm sau trở dậy lên đường. Trong ánh nắng sớm mai, đố ai biết có gì đổi khác. Nhìn vào thôn xóm vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Nhưng giải đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ tới bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lụt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên giải đồng rộng mênh mông. Trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên các đô thành làng mạc, trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây, nguời dân ViệtNam thản nhiên gieo nguồn sống. Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trổi dậy, tượng trưng cho sức sống mảnh liệt cho cả một dân tộc. (tác giả Thích Nhất Hạnh)
19/05/2016(Xem: 27137)
Bắt đầu từ ngày 06 tháng 4 năm 2016, cá biển tự nhiên và cá nuôi lồng bè của ngư dân ven biển chết hàng loạt, bắt nguồn từ khu kinh tế Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh), lan xuống các tỉnh lân cận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng…) suốt dọc trên 200 cây số bờ biển. Ngay cả rạn san hô, “nhà ở” của các sinh vật dưới biển, cách bờ biển từ 1-6 hải lý, chạy dài từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh Quảng Bình, cũng đã bị phá hủy trong các đợt cá chết vừa qua; san hô chết, nhiều sinh vật biển chết theo (theo báo cáo ngày 06.5.2016 của chính quyền địa phương thôn Nhân Nam, xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
09/04/2016(Xem: 15417)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
19/01/2016(Xem: 5686)
Năm nay, 2016, đánh dấu 50 năm Phật Giáo Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ, tính từ năm 1966, khi mà Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đến Mỹ dạy tại Đại Học UCLA và ở lại luôn để truyền bá Phật Giáo Việt Nam tại đây. Vì vậy, Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân là vị sơ tổ của Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ. Nhưng trước hết xin nhìn thoáng qua một chút về bối cảnh Phật Giáo Mỹ.
06/01/2016(Xem: 16496)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
06/07/2015(Xem: 11619)
(Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)” (China: Maritime Claims In The South China Sea) được Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Vùng Cực (Office of Ocean and Polar Affairs), Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế (Bureau of Ocean and International Environmental and Scientific Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (US Department of State) công bố ngày 5 tháng 12 năm 2014 – (Nguồn: http://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf ). Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét tuyên bố về biển và/hay các biên giới của Bộ Ngoại Giao và đánh giá sự phù hợp với luật quốc tế. Nghiên cứu này đại diện quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ đối với những vấn đề đặc biệt được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh sự chấp thuận những giới hạn được tuyên bố. Các phân tích gia chính cho nghiên cứu này là Kevin Baumert
27/04/2015(Xem: 8770)
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi" (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: "Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
19/04/2015(Xem: 12583)
Từ Đàm là ngôi chùa cổ mà không cổ. Chùa cổ, nếu tính theo năm sinh, khoảng 1690. Khi chùa khai sinh, Trịnh Nguyễn hãy còn phân tranh, mỗi mái chùa dựng lên ở phương Nam là mỗi bước chân mở đường Nam tiến sống chết của dân tộc.
19/04/2015(Xem: 3567)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại học ở Trung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” (năm 1912 chính phủ Dân Quốc thành lập đổi tên thành Đại Học Bắc Kinh) năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên. Trước năm 1920, Đại học ở Trung Quốc đều là dân lập như Đại học Đông Ngô, Đại học Tế Lỗ, Đại học Saint Jonhs. Theo tư liệu thống kê vào lúc đó trên 80% sinh viên đều theo học tại các trường Đại học do giáo hội Cơ Đốc giáo (đạo Chúa và đạo Tin Lành) thành lập.
29/01/2015(Xem: 6118)
Theo thời gian lịch sử và không gian vật lý, thì đệ tử Như Lai đều cho rằng núi Thiếu và khe Tào (Tào khê) là địa danh gắn liền với hành trạng Tổ Đạt Ma và Huệ Năng. Bởi đó là Đạo trường hành đạo giáo hóa của các Tổ sư. Đạo trường với quy ước vật lý này đánh dấu những nỗ lực bình sinh sau cùng để các Chân nhân Tổ sư “ung dung xô cửa huyền vi bước vào Đạo”. Để rồi cánh cửa ấy khai phóng nguồn năng lượng siêu nhiên tuôn chảy miên tục, “chắp cánh cho Đạo mầu bay vào cát bụi của kiếp người”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567