Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 5: Ðại Chúng Bộ

08/05/201320:18(Xem: 8081)
Chương 5: Ðại Chúng Bộ
Các Bộ Phái Phật Giáo Ở Ấn Độ


Chương 5: Đại Chúng Bộ

Thượng tọa Thích Nguyên Tạng
Nguồn: Dr.Nalinaksha Dutt.Thượng tọa Thích Nguyên Tạng



Lịch sử các bộ phái thuộc nhóm và nhóm II

Hai nhóm đầu tiên trong bản liệt kê của chúng ta bao gồm Đại Chúng Bộ và các chi phái. Xét các truyền thống khác nhau nói về sự xuất hiện của các chi phái, chúng ta thấy rằng luận sư Vasumitra và luận sư Bhavya có cùng ý kiến với cuốn Luận sư (Kathavathu) về ba chi phái nếu tên Cetiya được coi là tên gọi khác của Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravada). Trong Đại Sự (Mahavastu), một cuốn sách được nhận là của phái Thuyết Xuất Thế Bộ thuộc Đại Chúng Bộ, việc thờ thánh điển và bảo tháp (Caitya) được xem là quan trọng, vì vậy sẽ không sai lầm khi nói rằng phái Thuyết Xuất Thế Bộ được gọi là Chế Đa Sơn Bộ (Caityaka). Sau khi ba chi phái này xuất hiện một thời gian, hai chi phái khác cũng được thành lập, đó là Đa Văn Bộ (Bahusrutiya) và Thuyết Giả Bộ (Prajnaptivada). Theo luận sư Vasumitra và luận sư Bhavya, hai phái này phát sinh trực tiếp từ Đại Chúng Bộ, nhưng trong Luận Sự và truyền thống Tích Lan, thì hai phái này được xem là chi phái của Kê Dẫn Bộ ( Khôi sơn trụ bộ) dù phái này không có vẽ gì quan trọng vào bất kỳ thời điểm nào. Giáo thuyết của hai chi phái sau này giống giáo thuyết của Đại Chúng Bộ và của Nhất thiết Hữu Bộ. Đại Chúng Bộ đạt được ưu thế và phổ thông không hẳn là bởi những chi phái nói trên, mà bởi những bộ phái xuất hiện trong thời kỳ sau, tức là các phái Saila của Vasumitra và Bhavya cùng phái Andhaka của truyền thống Pali. Hai luận sư Vasumitra và Bhavya nói tới ba phái Saila, tức là Chế Đa Sơn Bộ (Caityaka), Bắc Sơn Trụ Bộ (Uttara) và Tây Sơn Trụ Bộ (Apara). Trong truyền thống Pali có năm phái được kể tên: Tuyết Sơn Bộ (Hemavatika), Vương An Trụ Bộ (Rajagirika), Nghĩa Thành Bộ (Siddhatthika), Đông Sơn Trụ Bộ (Pubbaseliya), và Tây Sơn Trụ Bộ (Aparaseliya). Truyền thống Pali chỉ giống một phần bản liệt kê của Vinitadeva, nhưng hoàn toàn phù hợp với những văn bản khắc trên những di tích được tìm thấy ở Nagarjunikanda và Amaravati. Các chi phái Saila xuất hiện sau đã đưa Đại Chúng Bộ (Mahasanghikas) vào bóng tối. Có lẽ Đại Chúng Bộ có trước đã không tập trung vào một trung tâm như các chi phái Saila, mà phân tán khắp miền tây bắc Aán-độ, tiểu bang Bihar và miền tây Ấn-độ. Trong khi đó các chi phái Saila quần tụ ở Sripanvata và Dhanakataka ( ở xứ Guntur) những văn bản khắc trên đá kể tên các vị vua và cho biết một cái tháp thờ (Caitya) hùng vĩ đã được xây dựng ở đây và thu hút nhiều người chiêm bái đến từ khắp Ấn-độ và Tích-lan. Bảo tháp được xây dựng vào thế kỷ thứ ba hay thứ tư Tây-lịch. Nhóm bộ phái Thứ Nhất Đại Chúng Bộ (Mahasanghikas), Nhất thuyết Bộ (Ekavyavaharika) và Chế Đa Sơn Bộ (Caityaka) nói chung có cùng một giáo thuyết với những điểm dị biệt nhỏ, và đã không được Luận sư Vasumitra phân biệt tỉ mỉ. Về nhóm bộ phái thứ hai, tức là các phái Saila hay Andhaka, Đa Văn Bộ (Bahusrutiya) và Thuyết Giả Bộ (Prajnaptivada) thì luận sư Vasumitra không nói gì cả. Trong Kathavatthu có một số lớn những giáo thuyết được coi là của nhóm thứ hai này, và sau khi nghiên cứu những giáo thuyết này, người ta thấy nhóm này chấp nhận một số giáo thuyết của Nhất thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin). Chúng ta sẽ bàn về giá thuyết của nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai riêng rẽ nhau. Kinh văn của Đại Chúng Bộ (Mahasanghikas) Đảo Sử (Dipavamsa) viết rằng phái Đại Chúng không chỉ đưa vào Luật Tạng mười điều mới mà còn tuyên truyền những giáo thuyết mới trái ngược với những giáo thuyết đã có từ trước. Trong cuộc kết tập Mahasangiti của họ tổ chức ở Pataliputra, họ sửa đổi một số điều quan trọng trong Kinh Tạng và Luật Tạng, và cũng không thay đổi thứ tự lối diễn dịch những kinh sách này. Họ loại bỏ những quyển Phụ tùy (Parivara), A-tỳ-đạt-ma-phẩm-lọại (Abhidharmmappakarana



(còn tiếp, sẽ đăng toàn bài sau)







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/12/2010(Xem: 3866)
Mùa Xuân là mùa đâm chồi nẫy lộc của thiên nhiên. Cách đây hơn 25 thế kỹ, nhân loại cũng đã chứng kiến một hiện tượng “đâm chồi nẫy lộc” khác vĩ đại và tuyệt vời hơn nhiều. Không phải của thiên nhiên mà của trí tuệ, không phải làm đẹp cảnh vật mà làm sáng lên một con đường giải phóng chúng sinh thoát khổ. Hiện tượng khai hoa nở nhụy đó là sự thành hình của Tăng đoàn Phật giáo (Tăng già, Sangha) do chính Đức Phật khai sinh, nuôi dưỡng và uốn nắn để từ đó lớn lên, lan rộng, vượt thời gian, tồn tại cho đến ngày nay dưới những chiếc tăng bào nhiều màu sắc trên khắp mặt địa cầu.
26/12/2010(Xem: 3809)
Dân số thế giới: 7 tỷ, trong đó, Á châu: 4 tỷ (Trung Quốc có 1.3 tỷ, Ấn Độ có 1.1 tỷ). Đạo Phật: 500 triệu tín đồ, đa số ở Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á, và một phần của Nga. Việt Nam: dân số 84 triệu, Phật giáo 83% (70 triệu; gồm Bắc tông 78% và Nam tông 5%), Gia-tô giáo 7%, Cao Đài 2%, các đạo khác và vô tôn giáo 8%).
25/12/2010(Xem: 4708)
Lịch Sử Kết Tập Kinh Điển , Bình Anson minh họa bằng biểu đồ và hình ảnh
25/12/2010(Xem: 9721)
Phật giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN. Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người, và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
24/12/2010(Xem: 6454)
Nếu ta dở bản đồ thế giới, ta sẽ thấy Á Châu chiếm một vùng đất mênh mông hình mặt trăng lưỡi liềm, hai đầu chỉa về hướng bắc, vòng trong đi theo duyên hải Biển Bắc Cực của xứ Scandinavia và Tây Bá Lợi Á. Vòng ngoài từ đông sang tây là bờ biển Thái Bình Dương Tây Bá Lợi Á qua Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, bán đảo lục địa Ấn Độ, Iran, Tiểu Tế Á đến Âu Châu. Giáp ranh vòng ngoài của mặt trăng lưỡi liềm ấy, tại nhiều nơi, nhưng đứng ngoài, ta thấy các nước Ả Rập, Phi Châu và Mỹ Châu.
15/11/2010(Xem: 7512)
Năm 938 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng kết thúc 1000 năm Bắc thuộc, bắt đầu thời kì tự chủ tiến tới xây dựng nền độc lập cho nước ta. Tuy nhiên tinh thần độc lập của nước Việt không phải bắt đầu từ sau chiến thắng ấy, mà nó đã tồn tại trong suốt thời gian Bắc thuộc, được thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa của bà Trưng, bà Triệu cho đến Phùng Hưng, rõ ràng tinh thần quyết dành độc lập của dân Việt luôn được nuôi dưỡng, chắn chắn đó là đề tài luôn được người dân Việt bàn bạc sau lũy tre làng, trên những cánh đồng hay trong những câu chuyện đêm đêm bên bếp lửa. Tuy nhiên do chưa có một nhà nước để thống nhất các lực lượng, nên đã có nhiều nhóm hoạt động chứ không phải chỉ có phe nhóm của Ngô Quyền,
04/11/2010(Xem: 4391)
Vì có nhiều người thắc mắc việc Đạo Phật biến mất trên đất Ấn Độ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Độ, cũng là một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Độ Giáo, dưới quan điểm của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị.
22/10/2010(Xem: 7112)
Khi tìm những bài nói về về tương lai Phật giáo hoặc Phật giáo và tuổi trẻ, tôi lấy làm ngạc nhiên vì không dễ kiếmđược nhiều bài nói về đề tài phức tạp này để cốnghiến cho đọc giả của đặc san. Có lẽ do vì thống kê sinhhoạt Phật pháp không được đầy đủ và nền sinh hoạttại các chùa không mấy liên quan với nhau.
20/10/2010(Xem: 3497)
Không phải ngẫu nhiên mà phong trào phục hưng Phật giáo tại Ấn Độ, như chúng ta đã thấy được đề xướng bởi một nhân vật Tích Lan (1) là đại đức Anagarika Dharmapala. (2) Sự liên quan chặt chẽ giữa Phật giáo với chủ nghĩa quốc gia Tích Lan phát sinh từ lịch sử chính trị và tinh thần đặc biệt của Tích Lan. Phật giáo đã có mặt ở Tích Lan từ triều đại A Dục Vương, (3) thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Vào lúc đó nhà vua đã đích thân gửi hoàng tử là Ngài Mahinda (4) sang vua Devanampiyatissa xứ Tích Lan (Lanka). Chẳng bao lâu, Phật giáo trở thành quốc giáo của vương quốc Lanka và tồn tại mãi đến khi người Anh chấm dứt vương quyền tại xứ này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]